Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2016

(2) J. Lacouture: VN-một đất nước đáng khâm phục!

Jean Lacouture: Việt Nam - một đất nước đáng khâm phục
(Tiếp theo và hết) 
Bài 2: Và D’Argenlieu đã không quên khi nhắc tướng Valluy (Va-luy): “Mục đích số một của sứ mệnh chúng ta… là lập lại uy quyền nước Pháp [ở Đông Dương] không chỉ về mặt luật pháp mà cả trong thực tế”.
Một tuần sau khi đến Sài Gòn, tướng P. Leclerc đề nghị với Chính phủ Pháp: “Tôi tin rằng chỉ có một phương kế duy nhất, đó là đổ bộ lên Bắc Bộ với quân số đông. Sẽ là một sai lầm tuyệt đối nếu thương thuyết một cách nghiêm túc với các đại biểu của Việt Minh trước khi phô trương sức mạnh” (A. Rusio, Người cộng sản Pháp và chiến tranh Đông Dương 1944-1954 - Les communistes français et la guerre d’Indochine 1944-1954, NXB L’Harmattan, Paris,1985, tr.97). Tướng R. Salan (R. Sa-lăng) phụ tá của P. Leclerc, tán thành ý kiến đó với điều kiện phải có ít nhất 5 vạn quân tham gia cuộc đổ bộ. Trong 9 tháng đầu năm 1946, Pháp kéo dài các cuộc đàm phán với Việt Nam, ký kết rồi vi phạm, chờ đủ hai điều kiện (quân đội Tưởng Giới Thạch rút về nước và quân tiếp viện từ Pháp sang) thì chuyển sang hành động.

Ngày 22-11-1946, Valluy lệnh cho Morlière (Moóc-li-e - chỉ huy quân Pháp ở Bắc Bộ) và đại tá Dèbes (Đê-bét - chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng): “Đã đến lúc dạy [cho Việt Nam] một bài học cứng rắn”. Hôm sau, từ chiến hạm Suffren, Pháp nã đại bác vào Hải Phòng. Ít nhất 6.000 người Việt Nam chết, trong đó hầu hết là dân thường. J. Sainteny, người ký Hiệp ước sơ bộ 6-3-1946, nhận định: “Quả thật, việc ấy đã cắt đứt mối quan hệ Việt - Pháp” (J. Sainteny, Lịch sử của một nền hòa bình thất bại - Đông Dương 1945-1947 - Histoire d’une paix manquée - Indochine 1945-1947, NXB Amiot Dumont, Paris, 1953, tr.216). Để cứu vãn tình hình, “phía Việt Nam yêu cầu trước hết quân Pháp trở về những vị trí mà họ chiếm đóng trước ngày 20-11”, nhưng phía Pháp từ chối. Ngày 17-12, Valluy bay ra Hải Phòng, nói với Morlière, Sainteny: “Bọn nhà quê [từ có ý xấu, chỉ người Việt Nam] muốn đánh nhau hả? Chúng sẽ được đánh nhau”. Hai ngày sau, chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp bùng nổ…

Với chủ trương đặt lại ách thống trị thuộc địa ở Đông Dương, Pháp đã đẩy Việt Nam vào thế phải lựa chọn: hoặc trở lại kiếp nô lệ ngoại bang như trước Cách mạng Tháng Tám, hoặc phải cầm súng chiến đấu bảo vệ độc lập và thống nhất. Do đó, toàn quốc kháng chiến là quyết tâm chung của mọi người Việt Nam, chứ không phải là quyết định của riêng ai. Lần đầu tiên gặp J. Lacouture vào tháng 2-1946, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tóm tắt lập trường của Chính phủ Việt Nam trong hai từ: Độc lập và Liên minh với Pháp (indépendance et alliance), đồng thời cảnh báo: nếu Pháp từ chối lập trường ấy, phát động chiến tranh, thì Việt Nam sẽ chiến đấu tới cùng. J. Lacouture đã ghi lại phát biểu đó trên tờ Paris-Saigon số 6 ra ngày 27-2-1946.

Thất vọng khi thấy chiến tranh nổ ra, sau 14 tháng ở Việt Nam, J. Lacouture xin về Pháp. Đầu năm 1953, trở lại Việt Nam, ông nhận định: “Việt Minh vẫn là đảng của nhân dân trong những vùng họ đứng chân. Không ai có thể nghi ngờ rằng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và những đồng đội của họ vẫn là những thủ lĩnh được nhân dân ủng hộ, họ luôn luôn là những người chỉ đạo cuộc kháng chiến”, “Dù họ là cộng sản hay không, tôi vẫn thấy họ là những đại biểu của dân tộc Việt Nam, họ đã giương cao ngọn cờ, tổ chức khởi nghĩa, phá tan hệ thống thuộc địa. Tôi đã thấy và vẫn thấy họ có tính chính thống lịch sử”. Ông kết luận: “Và tôi vẫn tin về lâu dài, Việt Minh sẽ là người nắm lấy tương lai của Việt Nam”.

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thành công chín năm kháng chiến. Theo J. Lacouture, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ giải phóng Việt Nam, mà còn “mở đột phá khẩu” cho phong trào xóa bỏ chế độ thực dân trên thế giới. Các nhà yêu nước ở các thuộc địa của Pháp tại Bắc Phi đều “thán phục Việt Nam”. Ông cho rằng: “Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh và Việt Minh định hợp nhất hai phép tính của lịch sử: giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội. Họ muốn kết nối cả hai và tiến hành cùng một lúc việc đánh đuổi thực dân và phá bỏ chế độ phong kiến hay đại tư sản”, “Tôi tin rằng ở Hồ Chí Minh, hai yếu tố đó [chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội] dung hợp với nhau một cách hoàn toàn”.

Không lâu sau Hiệp định Genève (Giơ-ne-vơ), một cuộc chiến tranh khác lại bắt đầu. Trong cuốn Việt Nam, từ chiến tranh của Pháp đến chiến tranh của Mỹ, J. Lacouture giải thích: “Nếu không tôn trọng Hiệp định sẽ không có hòa bình vững chắc”. Chính phủ Ngô Đình Diệm - được Mỹ ủng hộ và viện trợ - không chịu tổ chức tổng tuyển cử như Hiệp định Genève đã quy định, ngược lại tiến hành chiến dịch “tố cộng” khốc liệt”, “Đáng lẽ lợi dụng thời gian ngưng bắn để tái thống nhất Việt Nam một cách hòa bình, phù hợp với Hiệp định Genève, [chính quyền] Nam Việt Nam và đồng minh Mỹ của họ lại muốn tiến hành trở lại cuộc thập tự chinh chống Cộng”, “Cuộc đàn áp [của Diệm] khiến nhiều [người dân] bất bình và muốn báo thù. Và sự lệ thuộc của chế độ [Diệm] vào Mỹ làm [cho họ] tức giận”. Theo J. Lacouture, đó là căn nguyên chủ yếu dẫn đến cuộc nổi dậy của nhân dân miền nam trong nửa sau của thập niên 1950.

J. Lacouture bác bỏ luận điểm “miền bắc xâm lược miền nam” của Mỹ. Ông viết: “Tôi ở trong số những người nghĩ rằng có một cuộc nổi dậy từ bên trong chống lại Diệm”, “Nói một cách chính xác hơn, miền bắc ủng hộ một cuộc nổi dậy từ bên trong được phát động tại miền nam chống lại chế độ độc tài của Diệm. Tất cả xuất phát từ làn sóng cách mạng ở miền nam, kể cả từ trào lưu chống Mỹ rõ ràng không phải của cánh tả (…). Và từ năm 1960, các nhà lãnh đạo miền bắc mới quyết định giúp đỡ các đồng chí của họ ở miền nam cũng như những đồng minh của họ bị chế độ Diệm truy nã”, “Sự chi viện mà cuộc nổi dậy [ở miền nam] tiếp nhận không phải từ “bên ngoài” (l’extérieur), mà từ phía bắc của một đất nước luôn có tính thống nhất cả về pháp lý lẫn về tinh thần”. Từ nhận định bản chất của cuộc nổi dậy từ bên trong, tại chỗ, J. Lacouture lên án hành động của Mỹ: “Đối với tôi cũng như đối với những nhà quan sát không tham gia chiến đấu khác, sự can thiệp của Mỹ là một cuộc xâm lược, một sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của miền nam Việt Nam, sau đó là của cả nước [Việt Nam]”.

Năm 1966, ông được cấp học bổng làm nghiên cứu sinh tại Đại học Harvard. Nhưng thay vì biên soạn luận án, ông dùng thì giờ đi phỏng vấn, hay tham gia các cuộc hội thảo chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Về các lãnh tụ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam, ông viết: “Tôi tin rằng những nhà cách mạng ấy, có đạo đức, hoạt động liên tục, sống khổ hạnh, có thể theo đuổi mục đích, có thể chịu đựng gian khổ, về lâu về dài sẽ chiến thắng “phía bên kia” (tôi dùng lại từ ngữ trong Hiệp định [Paris] ngày 27-1-1973). Tôi tin rằng các chiến sĩ bưng biền ấy sẽ chiến thắng các con chuột thành phố”.

Năm 1972 ông tới Hà Nội. Miền bắc vừa trải qua những đợt ném bom khủng khiếp của R. Nixon (R. Ních-sơn). Khắp nơi, ông thấy câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và ông viết: “Đó là một chế độ tiến hành chiến tranh một cách đáng khâm phục, đã bảo vệ nền độc lập của Việt Nam chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ”, “Đứng đầu đất nước là những người mà tôi rất khâm phục”. Ngoài Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, còn có Phạm Văn Đồng “người mà tôi yêu mến, một chiến sĩ cách mạng điển hình”, “Tôi thấy một dân tộc tuy chịu nhiều đau khổ, nhưng họ cảm thấy tự hào và trung thành với những nhà lãnh đạo của họ”.

Ngày 30-4-1975, ông hân hoan chào mừng chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Ngày 4-10-2013, chỉ vài giờ sau khi hay tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, ông viết trên báo Le Monde bài Giáp: núi lửa dưới tuyết (Giap: le volcan sous la neige) để tưởng niệm vị tướng luôn sục sôi lòng yêu nước và ý chí cách mạng nhưng bề ngoài vẫn điềm tĩnh. J. Lacouture dường như có duyên nợ với Việt Nam, như ông viết: “Trong một phần tư thế kỷ của lịch sử Việt Nam, từ 1945 đến 1973, không có năm nào mà tôi không đi thăm tại chỗ hay không viết nhiều bài báo sau khi thử tìm lại chính mình trong cái mê lộ ấy với những người bạn có sở trường hơn tôi, nhất là với những người Việt Nam”, “Dù hay dù dở, tôi đã viết và phát biểu chống lại cuộc chiến tranh [của Mỹ ở Việt Nam] nhiều hơn bất cứ người nào mà tôi biết. Tôi không hối tiếc điều đó và tôi sẽ làm điều đó nếu cần phải làm, với tư cách là bạn của người Mỹ cũng như là bạn của người Việt Nam”.

Đúng vậy, ngoài hàng trăm bài báo, J. Lacouture đã viết bảy cuốn sách về Việt Nam, gồm: Kết thúc một cuộc chiến - Đông Dương 1945 (La Fin d’une guerre - Indochine 1945 - 1960), Việt Nam giữa hai nền hòa bình (Le Vietnam entre deux paix - 1965), Việt Nam, từ chiến tranh của Pháp đến chiến tranh của Mỹ (Vietnam, de la guerre française à la guerre américaine - 1969), Hồ Chí Minh (1969), Truyền thống và cách mạng ở Việt Nam (Tradition et révolution au Vietnam - 1971), Máu màu mực (Un sang d’encre - 1974), Việt Nam - du hành trải qua một chiến thắng (Vietnam - voyage à travers une victoire - 1976). Tuy biên soạn nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về lịch sử, J. Lacouture vẫn khiêm tốn, chỉ nhận mình là một “sử gia tập sự”, “đóng một vài trò gần với sử học”. Ông đặt ra một khái niệm mới: “sử học của thời mới vừa qua” (histoire immédiate). Năm 2003, Viện Hàn lâm Pháp tặng ông Giải thưởng lớn về sử học (Grand prix d’histoire). Như vậy, các đóng góp của ông cho sử học ở Pháp đã được đánh giá rất chính xác.



(*) Xem Báo Nhân Dân số ra ngày 3-5-2016.
PHAN VĂN HOÀNG

1 nhận xét:

  1. Đầu óc người Tây phương cởi mở có khác, hởi ông Lacoture nhìn lại đất nước tôi bây giờ ra sao không thấy ông nói gì hết huhu.

    Trả lờiXóa