Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

Thi ca dục ái trong văn học

Thi ca dục ái trong văn học
Thi ca dục ái xuất hiện từ lâu trong văn chương truyền khẩu. Phong dao, tục ngữ, câu đố có những bài, những câu liên quan đến tính dục nam nữ . Loại tác văn này không bóng bảy như văn chương chữ viết mà đôi khi còn thô lỗ, trắng trợn, tục tằn nữa. Thực ra đó chỉ là phản ảnh đặc tính nôm na, mộc mạc, tượng hình và cụ thể của nền văn học dân gian:
Sáng trăng em tưởng tối trời
Ngồi buồn em để cái sự đời em ra
Sự đời như chiếc lá đa
Đen hơn mõm chó, chém cha cái sự đời.

hoặc:

Hôm qua em đi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy nó cũng chẳng tha
Nó cứ ấn, cứ nhét cái đầu cha nó vào
Cái gì như cái củ nâu
Cái gì như thể cái cần câu nó gật gù...

(Phong Dao)

Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần l...  ám ảnh cũng mê mẩn đời


hoặc:

Không giàu thì cũng đẹp giai
Không thông kinh sử cũng dài con Q.
(Tục Ngữ)

Canh một thì trải chiếu ra
Canh hai bóp vú, canh ba sờ l..
Canh tư thì lắc xom xom
Canh năm cuộn chiếu ẵm con mà về

(Câu đố tả người kéo vó ban đêm)

Từ ngàn xưa đạo Nho bao trùm xã hội Việt Nam, quan hệ tình dục bị coi là thô tục nên văn gia tránh không đề cập tới. Nội dung thơ văn không hợp với đạo lý thánh hiền đều bị lên án khắt khe như “đàn ông chớ kể Phan Trần, đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều”. Truyện Phan Trần có đoạn tả Phan Sinh ốm tương tư, si tình đến toan tự tử. Với người xưa, nam nhi mà nhu nhược, ủy mị như thế là điều không thể chấp nhận được. Thúy Kiều vượt vòng lễ giáo đang đêm lẻn sang nhà Kim Trọng tình tự là điều luân lý Khổng Mạnh không cho phép. Truyện Kiều bị lên án là dâm ô, khiêu khích tình dục vì có đoạn tả nàng Kiều tắm và lúc Kiều thất thân với Mã Giám Sinh tuy rằng chỉ với những nét ước lệ, mờ nhạt thiếu tính cách cụ thể sinh động:

Buồng the phải buổi thong dong
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên

(Kiều tắm)

Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Một cơn mưa gió não nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương

(Mã Giám Sinh phá trinh Kiều)

Các thi gia có tư tưởng phóng khoáng như Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khuyến cũng chỉ dám phớt qua:

Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ không

(Nguyễn Công Trứ)

Đàn bà con gái sắn quần lên
Cái gì trăng trắng như con cúi

(Nguyễn Khuyến, Chỗ Lội Làng Ngang)

Hồ Xuân Hương, nhà thơ đầu tiên vượt trên cấm cản của xã hội, mô tả thật sống động cuộc mây mưa giữa nam nữ :

Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi xuân có biết xuân chăng tá?
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không

(Đánh Đu)

Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa
Thiếp vội vàng vướn phứa tịnh lên
Hai xe hà chàng gác hai bên
Thiếp sợ bí thiếp liền ghểnh sĩ
Chàng lừa thiếp đương cơn bất ý
Đem chốt đầu dú dí vô cung...

(Đánh Cờ)

Bà không ngại ngùng ca ngợi vẻ đẹp thể chất con người. Những bộ phận kín phụ nữ được diễn tả rõ ràng bằng lời thơ đầy nghệ thuật:

Thân em như quả mít trên cây
Da nó sù sì, múi nó dày
Quân tử có thương thì đóng nõ
Xin đừng mân mó nhựa ra tay

(Quả Mít)

Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá giếc le te lách giữa dòng

(Giếng Nước)

Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên nước chửa thông

(Thiếu Nữ Ngủ Ngày)

Thi ca dục ái Hồ Xuân Hương được lồng dưới hình thức ẩn dụ. Chính phần ẩn dụ chứa đựng những điều bị cho là thô tục, lả lơi, dâm dục có hại cho thế đạo nhân tâm. Thi sĩ Tản Đà lên án như sau: “Người ta thường có câu Thi Trung Hữu Họa, nghĩa là trong thơ có tranh. Như thơ Hồ Xuân Hưong lại là Thi Trung Hữu Quỉ, nghĩa là trong thơ có quỉ (An Nam Tạp Chí số 3 ra ngày 1/10/1932). Dương Quảng Hàm viết trong Quốc Văn Trích Diễm: “ Suốt tập thơ Hồ Xuân Hương không mấy bài là không có ý lả lơi, dầu tả cảnh gì vật gì cũng vậy” (Quốc Văn Trích Diễm, chương 10).

Trong nền văn học chữ quốc ngữ, thời tiền chiến sự hiện diện của thi ca dục ái chỉ thấp thoáng trong thơ Hàn Mặc Tử :

Tiếng ca ngắt. Cành lá rung rinh
Một nường con gái trông xinh xinh
Ống quần vo xắn lên đầu gối

Da thịt, trời ơí trắng rợn mình...
(Thi tập Gái Quê, bài Nụ Cười)

Thi ca dục ái bắt đầu rõ nét hơn trong thơ Bích Khê. “Sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết” (Hàn Mặc Tử, Tựa tập thơ Tinh Huyết của Bích Khê):

Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữ
Ô tiên nương! nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô? xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi
Hai vú nàng, hai vú nàng, chao ôi !
Cho tôi mút một giòng sông ngọt lộng
Và ô kìa một tòa hoa nghiêm động
Tay run run hãm lại cánh tình si
Hai tay nàng đã nở ngọc lưu ly
Hai chân nở màu sen ẻo lả
Cho tôi nàng, hãy cho tôi tất cả !...

(Tranh Lõa Thể)

Sang thế kỷ 21 thi ca dục ái là sự kết hợp nghệ thuật thơ Hồ Xuân Huơng, tính cách phong dao cận nhân tình và thêm chất thực tế trần trụi chói gắt của thi ca hiện đại. Nhà thơ công khai mô tả, ca ngợi vẻ đẹp lành mạnh tràn đầy nhựa sống, quyến rũ của thân thể con người cả hai phái nam nữ. Các điều đạo đức lánh xa che mặt được nhà thơ biến thành những đối tượng hấp dẫn. Tính dục mang tính cách tất yếu, một bản chất tự nhiên như ăn ngủ, là hạnh phúc hào hứng thực tế nhân loại. Chuyện ái ân nam nữ trong thơ dục ái dồi dào sức sống, bừng bừng sinh lực, đầy ắp không khí tươi mát lành mạnh đất trời. Con người và thiên nhiên hòa nhập, tương ứng, hài hòa với nhau. Thiên nhiên chứa đựng sinh lực con người. Con người thấm đượm màu sắc rực rỡ tươi thắm thiên nhiên:

Trong gió sớm cuộc hẹn hò cảnh khác
Rạch sậy lau che kín chiếc thuyền câu
Dành riêng em hưởng nguyên vẹn tình đầu
Đang trượt té qua cuộc tình nhục cảm
Ôi thế sự, ôi cuộc đời bụi cám !
Có nghĩa gì bằng dâng hiến tình yêu ?
Trái cấm dành người dám bạo dám liều
Tòa hoan lạc thường có ngoài cổ tích.
Hai thân thể trần truồng cùng quấn quít
Nụ hôn nồng, môi ham hố cơn say
Chồi nhân sinh gay gắt đỏ, giương dài
Cứ hăm hở chui huyệt sâu khoái lạc.
Trong gió sớm ôm mông chàng thật sát
Em lắng nghe thân ngún lửa từng cơn
Chàng vẫy vùng, thọc ngoáy thật sâu hơn
Cùng bay bổng lên thiên đường cảm giác
Trong gió sớm nhựa tinh chàng thơm ngát
Tuôn vào em từng đợt quánh và trơn
Em tặng chàng những vết máu tươi son
Khi chàng sống bản năng con thú đực

(Hồ Trường An, Trong Gió Sớm)

Thơ dục ái không hoằng dương nhục cảm. Nhà thơ sử dụng nó như phương tiện chuyên chở nghệ thuật, gây thích thú thưởng ngoạn, kích thích giác quan thẩm mỹ, tạo không khí trân trọng nghệ thuật. Tình yêu trong thơ dục ái là sự thăng hoa toàn diện, triệt để, vô hạn giữa tâm hồn và thể xác, giữa cá nhân với quê hương, giữa con người với thiên nhiên:

Rồi đó một trang đời mở rộng
Anh đưa em dưới vòm lá đêm
Tham lam môi nóng ghì môi ướt
Tay cứng nhồi xoa tảng ngực mềm

Đưa đẩy em trong một chiếc giường
Xem thường hiểm họa đạp tai ương
Khi nhìn thân thể anh ngồn ngộn
Da thịt nồng nàn như bốc hương

Em nghe bật vỡ nơi sâu kín
Máu thắm tuôn ra vậy cũng đành
Không biết thiên đường hay địa ngục
Khi nằm rạo rực dưới thân anh

(Hồ Trường An, Xa Bến Thiên Đường)

Thiên-đường-huyền-thoại vốn là không gian ảo chỉ hiện hữu trong ước mơ, nơi hứa hẹn hạïnh phúc vĩnh cửu nhưng xưa mai có ai tới được ngưỡng cửa thiên đường ? Thiên-đường-dục-ái là không gian có thật. Trong suốt hành trình đời sống hầu như mọi người ai cũng hơn một lần bước vào. Con thuyền-thơ-dục-ái chở những người yêu nhau chân chính trở lại tìm kiếm không gian và thời gian mà họ đã sống đến tận cùng giây phút tuyệt vời ngút lửa của hoan lạc thân xác trên giòng sông đam mê có thực. Thi ca dục ái là tiếng lòng nức nở và hoài niệm thiết tha của những tâm hồn nghệ sĩ đích thực. Một thời đại mới trong thi ca Việt đã mở đầu và dục-ái-ca thực sự chắp cánh bay bổng rạo rực ca ngợi hạnh phúc trần tục, thiên đường có thật của con người.

TRẦN BÍCH SAN

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Bích Khê, Tinh Huyết, Thơ, 1939.
- Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Hà Nội, 1944, Bộ Giáo Dục tái bản, Sài Gòn, 1968, Đại Nam in lại, Hoa Kỳ.
- Dương Quảng Hàm, Quốc Văn Trích Diễm, Nghiêm Xuân xuất bản, Hà Nội, 1925.
- Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam, Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Hà Nội, 1943, Đông Nam Á tái bản, Paris, 1985.
- Hồ Trường An, Thiên Đường Tìm Lại, Paris, 2002.
- Ngô Gia Võ, Khát Vọng Nhân Văn Trong Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Tuần Báo Việt Nam số 636, 6/7/2001, Texas, Hoa Kỳ.
- Nguyễn Du, Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, Vĩnh Hưng Long xuất bản, Hà Nội, 1927, Đại Nam in lại, Hoa Kỳ, 1995.
- Nguyễn Văn Hanh, Hồ Xuân Hương Tác Phẩm, Thân Thế và Văn Tài, Đại Nam in lại, Hoa Kỳ.
- Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, Hà Nội, 1928, Sống Mới in lại, Arkansas, Hoa Kỳ.
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn, 1962-1965, Đại Nam in lại, Hoa Kỳ.
- Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại, Tân Dân, Hà Nội, 1942, Thăng Long tái bản, Sài Gòn, 1960, Đại Nam in lại, Hoa Kỳ.

3 nhận xét:

  1. Cá nhân thấy Hàn Mạc Tử có lối phong tình nhất.

    Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu,
    Đợi gió đông về để lả lơi...
    Hoa lá ngây tình không muốn động,
    Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi...

    Trong khóm vi lau rào rạt mãi:
    Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
    Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
    Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...
    (Bẽn lẽn)



    Mặt trời mai ấy đỏ ong
    Nàng tiên hóng mát trên hòn cù lao
    Mùi xiêm thơm tựa sen ngào
    Áo xiêm: nhuộm nắng hồng hào chưa khô
    ......
    Nơi đây mây gió chán chường
    Ý gì tiên nữ đo lường tình tôi
    Tôi toan hớp cả ráng trời
    Tôi toan đớp cả miếng cười trong khe.
    (Say nắng )

    Trả lờiXóa
  2. Hai câu thơ:
    ""Trăng nằm sóng xoài trên cành liễu,
    Đợi gió thu về để lả lơi..."
    là của nhà thơ Xuân Diệu thì phải.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Không biết mà bày đặt sửa lưng người khác. Xem trang này thì biết bài thơ đó của ai: http://www.thivien.net/viewauthor.php?ID=6

      Xóa