Bài viết cũ của tôi năm 2004:
Phân tích, dự báo một số khả năng phát triển kinh tế đến năm 2010
5) Các cân bằng vĩ mô:
Các phương trình trong 4 khối trên mới cho phép xác định được các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhưng chưa phản ánh được cân bằng thực và cân bằng giá trị giữa các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đó. Dưới đây sẽ xác định các phương trình phản ánh các cân bằng của nền kinh tế quốc dân theo hiện vật và theo giá trị.
5.1) Cân bằng về mặt hiện vật (cân bằng theo giá cố định):
(26) Quỹ tích luỹ ACCUM:
Cân bằng theo giá cố định là cân bằng nguồn - sử dụng tổng sản phẩm quốc dân theo phương trình cân bằng tổng quát:
GDP + IMCON = ACCUM + CONSO + EXCON
trong đó GDP là tổng sản phẩm trong nước; IMCON là kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tính theo nội tệ; ACCUM là quỹ tích luỹ; CONSO là quỹ tiêu dùng; EXCON là kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tính theo nội tệ. Tất cả các chỉ tiêu này đều được tính theo giá cố định năm 1994.
Từ các phương trình trong các khối trên, chúng ta đã xác định được các chỉ tiêu GDP, CONSO; mặt khác trong các khối xuất nhập khẩu phía sau, chúng ta sẽ xác định được IMCON và EXCON. Do vậy, phương trình cân bằng theo giá cố định thực chất là phương trình xác định quỹ tích luỹ:
ACCUM = (GDP + IMCON) - (CONSO + EXCON) - SAI
trong đó SAI là sai số trong cân đối sử dụng GDP do Tổng cục Thống kê chấp nhận và đưa vào các báo cáo thống kê.
5.2) Cân bằng về mặt giá trị (cân bằng theo giá hiện hành):
Cân bằng về mặt giá trị bao gồm tính toán các chỉ tiêu trong phương trình cân bằng tổng quát theo giá hiện hành và đảm bảo cân bằng tổng quát theo giá hiện hành. Theo cân đối tài khoản quốc gia, phương trình cân bằng tổng quát theo giá hiện hành là:
GDPCU + IMCU = CONCU + ACCU + EXCU
trong đó GDPCU là tổng sản phẩm trong nước, CONCU là tổng tiêu dùng toàn xã hội (tiêu dùng cuối cùng), ACCU là tích luỹ , EXCU và IMCU lần lượt là giá trị xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong năm. Các chỉ tiêu này đều được tính theo giá hiện hành. Phương trình trên phản ánh điều kiện cân bằng trên thị trường: Tổng cung hàng hoá và dịch vụ do nền kinh tế sản xuất ra phải cân đối với tổng cầu. Dưới đây sẽ lần lượt xác định các thành phần trong phương trình trên.
(27) Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành GDPCU:
Tổng sản phẩm theo giá hiện hành được xác định bằng cách nhân tổng sản phẩm theo giá so sánh với chỉ số giá GDP (GDP deflator); đây là phương trình định nghĩa, tức là:
GDPCU = GDP * PGDP / 100
trong đó PGDP là chỉ số giá GDP với năm gốc là năm 2004 (năm 1994 = 100%).
(28) Tiêu dùng xã hội theo giá hiện hành CONCU:
Tiêu dùng xã hội theo giá hiện hành được tính bằng cách nhân tiêu dùng xã hội theo giá cố định với chỉ số giá tiêu dùng xã hội; phương trình như sau:
CONCU = CONSO * PCONSO / 100
trong đó PCONSO là chỉ số giá tiêu dùng xã hội với năm gốc là năm 2004. Ngoài xác định tiêu dùng xã hội theo giá hiện hành, mô hình cũng xác định tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng của Chính phủ theo giá hiện hành cũng bằng phương pháp tương tự.
(29) Tích luỹ xã hội theo giá hiện hành ACCU:
Tích luỹ toàn xã hội theo giá hiện hành được tính bằng cách nhân tích luỹ theo giá cố định với chỉ số giá tích luỹ; phương trình như sau:
ACCU = ACCUM * PACCUM / 100
trong đó PACCUM là chỉ số giá tích luỹ.
(30) Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá hiện hành EXCU:
Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá hiện hành được tính bằng cách nhân xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá cố định với chỉ số giá xuất tương ứng; phương trình như sau:
EXCU = EXCON * PEXCON / 100
trong đó PEXCON là chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
(31) Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá hiện hành IMCU:
Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá hiện hành được tính bằng cách nhân nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ theo giá cố định với chỉ số giá nhập tương ứng; phương trình như sau:
IMCU = IMCON * PIMCON / 100
trong đó PIMCON là chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.
(32) Phương trình cân đối chung
Do tất cả các biến trong phương trình cân bằng tổng quát theo giá hiện hành đã được xác định nên cân đối chung sẽ là việc tính sai số theo giá hiện hành:
SAICU = (GDPCU + IMCU) - (CONCU + ACCU + EXCU)
Trên đây là các phương trình chủ yếu của khối thực của mô hình. Để xem xét ảnh hưởng của các biến giá trị tới tình hình phát triển của các chỉ tiêu trong khối thực, dưới đây sẽ mô hình hoá các chỉ tiêu chính thuộc khối tài chính, tiền tệ và giá cả (khối giá trị).
II- KHỐI GIÁ TRỊ (TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ, GIÁ CẢ):
Khối giá trị phản ánh tình hình tài chính, tiền tệ, giá cả bao gồm các chỉ tiêu thu, chi và mức thâm hụt ngân sách, giá cả và các chỉ tiêu phản ánh biến động về tiền tệ. Các phương trình của mô hình được xây dựng chủ yếu trên cơ sở những phân tích kinh tế vĩ mô trong chương I. Phương pháp tiếp cận để mô hình hoá cũng tương tự như được đề cập trong phần mô hình hoá khối thực.
1) Tài chính công (thu chi ngân sách):
Trong các mô hình kinh tế lượng vĩ mô, bao giờ cũng phải có phần nghiên cứu riêng dành cho tài chính công vì vai trò ngày càng quan trọng của chính phủ trong hệ thống kinh tế, xã hội và do tính chất đặc thù của các hoạt động của Chính phủ.
Dự báo tài chính công phụ thuộc rất lớn vào các giả thiết về chính sách tài chính của Nhà nước, được phản ảnh trong quy mô và cơ cấu của thu, chi ngân sách và phương thức bù đắp cho thâm hụt ngân sách dự báo. Điều này khác với dự báo khu vực thực (sản xuất, việc làm, đầu tư, tiêu dùng, ngoại thương...) vì khu vực này phụ thuộc tương đối ít vào các hoạt động của chính phủ trong khi hoạt động của khu vực ngân sách gắn chặt với mọi quyết định cụ thể của chính phủ, nhất là trong lĩnh vực chi tiêu. Tuy nhiên, nếu như thu ngân sách phụ thuộc rất lớn vào kết quả hoạt động của nền kinh tế thì các chi ngân sách lại chịu ảnh hưởng rất lớn vào các quyết định của chính phủ. Đặc biệt, ở tầm ngắn hoặc trung hạn như những năm gần đây, chính phủ có thể quay ngoặt chính sách 180 độ, chuyển từ thặng dư ngân sách sang thâm hụt cao và bắt các khu vực khác của nền kinh tế phải gánh vác việc bù lỗ cho thâm hụt ngân sách.
Trong luật thuế, đã xác định tương đối rõ ràng những hoạt động gì sẽ bị thu thuế. Nói đến thu thuế, trước hết được hiểu là thu đánh vào các hoạt động kinh tế như sản xuất của một doanh nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, bán nhà, có nguồn thu nhập cao... Tuy nhiên, cũng có nhiều loại thuế đánh vào những đối tượng không có tính kinh tế như thuế đánh vào công suất các động cơ ô tô, vào đăng ký ô tô xe máy...
Những thông tin sau đây đều có trong luật thuế: (i) các đối tượng phải nộp thuế, (ii) các phương thức đánh giá giá trị để tính thuế, (iii) Miễn, giảm thuế nếu có, (iv) Các thuế suất được áp dụng.
Các thuế suất được áp dụng theo hai cách: Một là, theo giá khi nhận hàng hoá hoặc theo giá chính thức (giá thương mại). Hai là theo khối lượng bán hàng hoặc kết quả sản xuất (các thuế suất đặc thù).
Để xây dựng các dự báo thu thuế, người ta phải dự báo tiến triển của cơ sở thu thuế (nguồn thu) và các thuế suất sẽ được áp dụng. Cơ sở đánh thuế lý tưởng là cơ sở đã được quy định trong luật, nhưng trên thực tế rất khó sử dụng nó một cách trực tiếp vì nhiều nguyên nhân. Một mặt, một số chỉ tiêu không tồn tại đủ theo chuỗi thời gian, nên không thể dự báo những cơ sở này. Mặt khác, thông tin liên quan thường rất chậm. Ví dụ khi dự báo thu thuế VTA đối với các mặt hàng cao cấp, cơ sở thu thuế là tiêu dùng các mặt hàng cao cấp của các hộ gia đình. Ngay cả khi người ta biết chính xác cơ sở thu thuế (danh mục những sản phẩn xác định trong luật) và các thuế suất, cũng rất khó dự báo tổng thu thuế VAT vì không dự báo được tiêu dùng tương lai các loại sản phẩm này.
Để xử lý khó khăn này, cách hợp lý nhất là thay cơ sở đánh thuế trong luật bằng một cơ sở khác, gọi là cơ sở thay thế, với lập luận lô gíc là hai loại cơ sở này tương quan chặt với nhau. Cơ sở thay thế thường là một biến kinh tế vĩ mô có tương quan, liên hệ chặt chẽ với cơ sở đánh thuế nhưng chúng ta có đủ số liệu về nó trong quá khứ cũng như dễ dàng dự báo cho tương lai.
Các cơ sở thay thế thông thường được chọn trong số những chỉ tiêu gộp của hệ thống tài khoản quốc gia và tài khoản quan hệ quốc tế. Khi sử dụng các cơ sở thay thế, cần xem lai cách phân loại các loại thuế cần dự báo cho phù hợp.
Tài chính công được mô hình hoá qua nhiều giai đoạn. Trước tiên, chúng ta xây dựng phương trình xác định tổng thu ngân sách gộp trong đó thu ngân sách phụ thuộc chủ yếu vào các biến kinh tế vĩ mô như GDP, tiêu dùng và nhập khẩu. Sang bước 2, sẽ xây dựng phương trình chi ngân sách cho tiêu dùng là hàm của thu ngân sách. Chi ngân sách để trả nợ thường được coi là thành phần đã được xác định trước (vì căn cứ vào số lượng nợ đã có và các thời điểm đến hạn, sẽ tính trước được lịch trả nợ từng kỳ của thời gian tới). Do đó, trong tổng chi ngân sách gộp, chỉ còn thành phần chi ngân sách cho đầu tư phát triển là chưa được biết. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp đặc biệt như tình hình hiện nay ở nước ta, khi nhà nước chủ động ấn định trước một tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP và quyết định dành toàn bộ số chênh lệch thu – chi ngân sách thường xuyên và trả nợ cho mục tiêu đầu tư phát triển, thì chi ngân sách cho đầu tư phát triển được tình trên cơ sở cân bằng tổng thu chi ngân sách. Mô hình không xét đến các giải pháp tài chính cho thâm hụt ngân sách.
Thu ngân sách ở nước ta gồm thu thuế và phí, trong đó thuế chiếm tỷ trọng rất cao (khoảng 83%). Mặt khác, trong khi số nguồn hình thành phí tương đối ít và có tính đồng nhất cao thì các nguồn hình thành thuế rất đa dạng và mang bản chất rất khác nhau tuỳ từng loại thuế. Theo phân loại của Bộ Tài chính trong các báo cáo thuế thì có tới 15 loại thuế; mỗi loại lại có cơ sở thu thuế và thuế suất rất khác nhau. Do đó để có những phân tích, dự báo chính xác về thuế và tổng thu ngân sách, cần phải xây dựng nhiều phương trình cho từng loại thuế khác nhau để phản ánh đúng những biến động khác nhau của từng loại thuế.
(33) Thu nội địa REVDO:
Thu nội địa là nguồn thu quan trọng nhất của nền kinh tế, thường chiếm trên 50% tổng thu ngân sách nhà nước. Thông thường thu nội địa được xác định căn cứ vào kết quả sản xuất trong nước, được thể hiện qua một số chỉ tiêu như tổng sản phẩm trong nước, tổng thu nhập quốc gia... Để phù hợp với điều kiện nước ta, chúng ta sẽ coi tổng sản phẩm trong nước là cơ sở thu thuế nội theo như nhận định của hầu hết các lý thuyết kinh tế. Khi đó, tổng thu nội địa là hàm số của tổng sản phẩm trong nước, tức là:
REVDO = f (GDPCU)
(34) Thu từ thuế xuất nhập khẩu REXIM:
Thu thuế đối với hoạt động ngoại thương chiếm khoảng 20-25% tổng thu ngân sách nhà nước, do đó nó có vai trò rất quan trọng đối với ổn định nguồn thu ngân sách. Cơ sở thu thuế xuất nhập khẩu thường là giá trị và khối lượng xuất nhập khẩu tính bằng tiền quốc gia. Nếu quốc gia đó chỉ áp đặt thuế đối với hàng nhập mà không áp đặt thuế đối với hàng xuất thì cơ sở thu thuế là giá trị và khối lượng nhập khẩu. Nếu quốc gia đó chỉ áp đặt thuế đối với 1 vài sản phẩm xuất khẩu đặc thù thì thuế được tính trực tiếp đối với giá trị và khối lượng xuất khẩu các sản phẩm đặc thù đó.
Căn cứ vào tình hình nước ta, chúng tôi ước lượng thuế ngoại thương theo giá trị nhập khẩu tính theo nội tệ, cụ thể là:
REXIM = f (IMCU)
(35) Thu từ dầu thô ROIL:
Cũng như thuế xuất nhập khẩu, thu ngân sách từ dầu thô chiếm khoảng khoảng 20-25% tổng thu ngân sách nhà nước, do đó nó cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với ổn định nguồn thu ngân sách. Cơ sở thu ngân sách từ dầu thô là đơn giá và khối lượng xuất khẩu dầu thô. Phương trình xác định thu ngân sách từ dầu thô như sau:
ROIL = f (TOIL * OILVO * POILUS * NER / 1000)
trong đó TOIL là thuế suất trung bình đối với xuất khẩu dầu thô, OILVO là khối lượng dầu xuất khẩu, POILUS là giá dầu tính theo đô la Mỹ, NER là tỷ giá danh nghĩa.
Tuy nhiên, do việc tính toán các mức thuế suất trung bình đối với xuất khẩu dầu thô qua các năm gặp nhiều khó khăn nên trong phạm vi đề tài này, chúng ta chỉ xem xét ảnh hưởng của 3 biến cuối trong phương trình tới thu ngân sách từ dầu thô, phương trình cụ thể như sau:
ROIL = f (OILVO * POILUS * NER / 1000)
(36) Tổng thu ngân sách REVGO:
Tổng thu ngân sách là tổng của bốn thành phần thu ngân sách gồm thu nội địa, thu từ thuế xuất nhập khẩu, thu từ dầu thô và thu từ viện trợ không hoàn lại. Vì thu từ viện trợ không hoàn lại chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu ngân sách (dưới 2%) nên có thể coi là biến ngoại sinh. Do vậy, tổng thu ngân sách được xác định như sau:
REVGO = REVDO + REXIM + ROIL + ROTH
trong đó ROTH là thu từ viện trợ không hoàn lại.
(37) Tổng chi ngân sách nhà nước EXPGO:
Chi ngân sách Nhà nước gồm ba bộ phận: chi tích luỹ để đầu tư phát triển, chi tiêu dùng thường xuyên và trả nợ và viện trợ nước ngoài; trong đó chi tiêu dùng thường xuyên chiếm tỷ trọng quan trọng nhất. Nếu như thu ngân sách phụ thuộc rất mạnh vào kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thì chi ngân sách có độ độc lập tương đối cao; tức là chi ngân sách phụ thuộc nhiều vào ý muốn chủ quan của các chính phủ. Các số liệu thống kê cho thấy trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh và được duy trì ở những mức khá cao trong hầu suốt thập kỷ 90 thì tỷ lệ chi ngân sách trên GDP, sau khi lên đến đỉnh cao nhất vào năm 1993, có xu hướng giảm dần; tức là tốc độ tăng trưởng chi ngân sách thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là chính sách tài khoá có xu hướng chặt lại trong thập kỷ 90 như đã phân tích trong chương I.
Tính độc lập tương đối của tổng chi ngân sách Nhà nước so với kết quả sản xuất được xuất phát từ nhiều nhân tố chủ quan của Chính phủ trong mỗi thời kỳ, trong đó đáng kể nhất là chi cho đầu tư phát triển, chi quốc phòng an ninh, chi điều chỉnh tiền lương... Ngoài những khoản chi ngân sách nêu trên, còn có những khoản chi khác mà chính phủ không có quyền hoặc rất khó can thiệp, ví dụ như những khoản chi đã được ghi trong Luật Ngân sách hoặc những cam kết đã có, như chi phí cho y tế, giáo dục, người về hưu, trả nợ trong nước và nước ngoài... Chi trả nợ nước ngoài có liên quan chặt chẽ tới cán cân thanh toán quốc tế và vay nợ trong quá khứ; thông thường, các chính phủ đều biết tổng số nợ đến hạn phải trả và số lãi kèm theo, do đó số chi ngân sách cho trả nợ nước ngoài coi như đã được xác định. Tình hình tương tự đối với trả nợ trong nước. Do đó, để chuẩn bị đầu vào cho mô hình, người ta thường xây dựng một lịch trình trả nợ của chính phủ trên cơ sở các thông tin nợ tồn đọng, từ đó tính ra số tiền ngân sách phải chi cho mục đích này. Vì vậy dự báo chi trả nợ không đặt ra nhu cầu phải xây dựng các mô hình kinh tế lượng.
Tính độc lập tương đối của tổng ngân sách Nhà nước còn được thể hiện ở việc các chính phủ chấp nhận những mức, tỷ lệ thâm hụt ngân sách nào đó để bù đắp cho những khoản chi bắt buộc trong điều kiện thu ngân sách có hạn. Ở nước ta, trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân khách quan, nhất là kinh tế thế giới và trong nước gặp khó khăn, chính phủ đã chủ động ấn định những tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP cao và dùng toàn bộ số thâm hụt này để đầu tư phát triển và hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế. Như vậy, nếu như tổng thu ngân sách được xác định căn cứ vào kết quả sản xuất thì tổng chi ngân sách được xác định theo quan hệ sau:
EXPGO = REVGO + DEFBU
trong đó DEFBU là mức thâm hụt ngân sách được tính trên cơ sở tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP là một biến ngoại sinh.
(38) Chi ngân sách thường xuyên EXPPM:
Trong ba thành phần của tổng chi ngân sách Nhà nước, chi ngân sách thường xuyên thường được xem là thành phần mang tính nội sinh trong khi chi đầu tư phát triển và trả nợ và viện trợ nước ngoài thường được xem là thành phần mang tính ngoại sinh. Trên thực tế, mặc dù chi ngân sách thường xuyên phụ thuộc tương đối lớn vào chính sách của chính phủ, nhưng do quy mô lớn nên nó vẫn không thể thoát ly khỏi tổng thu ngân sách vì chi thường xuyên phải dựa trên khả năng thu. Mặt khác, theo kinh nghiệm của các mô hình kinh tế lượng đã có, quan hệ giữa chi thường xuyên và tổng thu ngân sách nói chung đã diễn ra khá chặt. Do đó phương trình xác định chi ngân sách thường xuyên trong mô hình lý thuyết như sau:
EXPPM = f (REVGO)
(39) Chi ngân sách cho đầu tư phát triển INVGO:
Ngược với chi ngân sách thường xuyên, chi ngân sách cho đầu tư phát triển phụ thuộc vào mục tiêu phát triển kinh tế của chính phủ trong mỗi thời kỳ. Thông thường, căn cứ vào mục tiêu tăng trưởng, người ta sẽ ước tính được nhu cầu đầu tư thông qua mô hình tăng trưởng nội sinh; từ đây sẽ ước tính nhu cầu đầu tư từ ngân sách Nhà nước và dự báo một tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP cần thiết để đáp ứng nhu cầu. Sau đó tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP được coi là biến chính sách, tức là biến ngoại sinh. Trên thực tế, tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP thường được xem là biến ngoại sinh trong mô hình để phân tích, mô phỏng và chọn lựa những tỷ lệ thâm hụt ngân sách hợp lý nhất căn cứ vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô của chính phủ.
Ở nước ta, như đã nói ở trên, trong những năm gần đây, chính phủ đã chủ động ấn định những tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP cao và dùng toàn bộ số thâm hụt này để đầu tư phát triển và hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế. Vì vậy, nếu gọi DEFRA là tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP thì tổng giá trị thâm hụt ngân sách được tính theo công thức:
DEFBU = DEFRA * GDPCU
Khi đó chi ngân sách cho đầu tư phát triển được xác định như sau:
INVGO = EXPGO - (EXPPM + PAYIN)
trong đó PAYIN là giá trị của phần chi ngân sách để trả nợ và viện trợ của chính phủ. Chi trả nợ nước ngoài có liên quan chặt chẽ tới cán cân thanh toán quốc tế. Thông thường, các chính phủ đều biết tổng số nợ đến hạn phải trả và số lãi kèm theo. Tình hình tương tự đối với nợ trong nước. Do đó, trong mô hình, thường xây dựng một lịch trình trả nợ của chính phủ trên cơ sở các thông tin nợ tồn đọng, từ đó tính ra số tiền ngân sách phải chi cho mục đích này. Vì vậy dự báo chi trả nợ không đặt ra nhu cầu phải xây dựng các mô hình kinh tế lượng. Biến này được giả định là ngoại sinh.
2) Tiền tệ:
Dự báo tiền tệ trong mô hình kinh tế lượng vĩ mô tập trung vào dự báo các thành phần của luồng cung và luồng cầu tiền tệ. Trong mô hình VMEM-2004, chúng tôi chỉ giới hạn trong dự báo tổng cầu tiền tệ vì lý do sau đây: Một mặt, ở nước ta, cung tiền tệ được giám sát và chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của Ngân hàng trung ương nên tính ngoại sinh tương đối cao; đã có nhiều năm cung tiền tệ không đáp ứng đủ nhu cầu làm phát sinh hiện tượng thiếu tiền trong lưu thông, buộc Ngân hàng trung ương phải phát hình những loại giấy gần như tiên, nhưng không phải là tiền để tham gia thanh toán, hoặc phát sinh hiện tượng đô la hoá mạnh trong nền kinh tế. Mặt khác, VMEM-2004 là một mô hình cung kết hợp với một số nhân tố cầu, trong đó tiền tệ được phát hành là để cung cấp đủ tín dụng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế; như vậy cầu tiền tệ là biến nội sinh, phụ thuộc chủ yếu vào tổng tín dụng, trong khi tín dụng được xác định từ nguồn vốn huy động và một số nhân tố khác.
(40) Tổng cầu tiền tệ M2:
Theo các lý thuyết kinh tế, ở mức gộp, hàm cầu tiền tệ thường được xác định như sau:
trong đó M D là cầu tiền tệ danh nghĩa; P là mặt bằng giá chung, coi như đã được dự báo trước; và i là lãi suất danh nghĩa. Trong ước lượng kinh tế lượng, người ta thường thể hiện hàm trên thành một hàm logarith tuyến tính với giả thiết hệ số của biến GDP/P dương trong khi hệ số của biến i âm.
Trong mô hình VMEM, vì chúng ta đã chi tiết hoá thêm nhiều khối của nền kinh tế, đặc biệt là đã đưa vào biến tổng giá trị tín dụng phải cung cấp để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nên có thể mô hình hoá phương trình xác định cầu tiền tệ ở mức chính xác hơn. Thực tế ở nước ta cũng như trên thế giới, phát hành tiền tệ đều nhằm một số trong ba mục đích sau: (i) cung cấp tín dụng cho nền kinh tế; (ii) mua ngoại tệ để tăng dự trữ; và (iii) bù đắp thâm hụt ngân sách. Ở nước ta, hiện tượng phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách có năm vẫn xẩy ra; do đó, tốc độ tăng trưởng tiền tệ phụ thuộc đồng thời vào tốc độ tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế, tỷ lệ thâm hụt ngân sách và phục vụ nhu cầu mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại tệ. Do vậy, thay vì dùng biến gộp GDP, có thể đưa vào các biến phản ánh nhu cầu tín dụng và dự trữ ngoại tệ. Cụ thể, phương trình xác định tổng cầu tiền tệ như sau:
M2 = f(CREDO, DEFBU, RESDONG, INTEOUT)
trong đó RESDONG là cung tiền Việt để mua ngoại tệ.
3) Giá cả
(41) Tốc độ tăng giá tiêu dùng (tỷ lệ lạm phát) INFLA:
Đối với một sản phẩm trên thị trường, giá cả được xác định căn cứ vào quan hệ cung cầu; khi cầu vượt cung thì giá hạ và ngược lại. Mặc dù quá trình này có thể bị chậm lại do những can thiệp hành chính hoặc điều chỉnh thời vụ nhưng về dài hạn, quan hệ cân đối cung cầu vẫn là nhân tố cơ bản xác định giá cả từng loại hàng hoá. Ở tầm kinh tế vĩ mô, tăng mặt bằng giá là phản ảnh của những phi cân bằng kinh tế vĩ mô, nhưng vấn đề dự báo giá cả trở nên phức tạp hơn vì ở cấp này xuất hiện nhiều nhân tố mang tính tổng hợp.
Trong thực tế, lạm phát ở một nước đang phát triển như nước ta có thể xảy ra do sự tồn tại đồng thời của nhiều nhân tố cung, cầu, cơ cấu, tiền tệ... mà việc phân tích trực quan khó có thể cho những nguyên nhân chính xác. Do đó, kinh nghiệm thực tế cho thấy nên đưa tất cả các biến của các mô hình có khả năng nhất vào cùng một mô hình gộp và ước lượng; từ đó lựa chọn những biến có khả năng giải thích tốt nhất hiện tượng lạm phát. Đối với mô hình VMEM-2004, phương trình xác định lạm phát được dự kiến như sau:
INFLA = f (GM2, DEVAL, INPIM, GRESA, GGDP, INTIN, DEFRA)
trong đó GM2, DEVAL, INPIM, GRESA và GGDP lần lượt là tốc độ tăng trưởng của tổng cung tiền tệ M2, của tỷ giá danh nghĩa NER, của giá hàng nhập khẩu PIM, của tiền lương thực tế RESA và của tổng sản phẩm trong nước GDP; riêng INTIN là lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng; DEFRA là tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP. Các biến GM2 và INTIN phản ánh vai trò của chính sách tiền tệ trong khi DEFRA phản ảnh ảnh hưởng của chính sách ngân sách tới lạm phát.
(42) Chỉ số giá tiêu dùng
Khi đã xác định được tỷ lệ lạm phát INFLA, chỉ số giá tiêu dùng phản ánh mặt bằng giá so với một năm gốc, sẽ được tính theo công thức:
PRICE = PRICE(-1) * (100 + INFLA) / 100
(43) Lạm phát giá GDP (GDP deflator) PGDP:
Trong các mô hình trước đây, lạm phát giá GDP phụ thuộc chủ yếu vào biến động giá tiêu dùng vì giá trị hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao trong GDP. Tuy nhiên, đối với nước ta trong một số năm gần đây, càng ngày càng thấy hiện tượng biến động của hai loại giá này không thật gắn bó với nhau. Nguyên nhân là do độ mở cửa của nền kinh tế nước ta đã trở lên khá lớn nên những thay đổi giá cả hàng xuất nhập khẩu tính theo tiền Việt đều có tác động mạnh tới biến động lạm phát giá GDP. Vì giá quốc tế tính theo tiền Việt bằng giá thị trường thế giới nhân với tỷ giá nên phương trình xác định chỉ số giá GDP được dự kiến là:
PGDP = f(PRICE, EXRAT, PIM, GGDP(-1))
(44) Chỉ số giá quỹ tiêu dùng tư nhân PCONPRI:
Quỹ tiêu dùng tư nhân gắn chặt với tiêu dùng xã hội, do đó chỉ số giá quỹ tiêu dùng tư nhân gắn chặt với chỉ số giá tiêu dùng xã hội PRICE. Phương trình xác định như sau:
PCONPRI = f (PRICE)
(45) Chỉ số giá quỹ tiêu dùng nhà nước PCONGO:
Tương tự như đối với quỹ tiêu dùng tư nhân, quỹ tiêu dùng chính phủ cũng gắn chặt với tiêu dùng xã hội, do đó chỉ số giá quỹ tiêu dùng chính phủ gắn chặt với chỉ số giá tiêu dùng xã hội PRICE. Phương trình xác định như sau:
PCONGO = f (PRICE)
(46) Chỉ số giá quỹ tích luỹ PACCUM:
Do quy mô mô hình hạn chế nên phương trình xác định chỉ số giá quỹ tích luỹ cũng tương tự như đối với quỹ tiêu dùng.
PACCUM = f (PRICE)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét