Toàn văn phát biểu của ông Lê Thanh Hải nêu 6 bài học không được quên
30/06/2019 (GDVN) - Ông Lê Thanh Hải đã có bài phát biểu về “Thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đạt được sau 50 năm thực hiện di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Toàn cảnh Hội thảo khoa học. (Ảnh: hcmcpv.org.vn).
Ngày 29/6, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức “Hội thảo khoa học 50 năm Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Tại buổi hội thảo, ông Lê Thanh Hải - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu về “Thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đạt được sau 50 năm thực hiện di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng đăng tải toàn văn bài phát biểu của ông Lê Thanh Hải tại hội thảo này:
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn Dân ta một bản Di chúc vô cùng quý báu.
Trải qua nửa thế kỷ, toàn Đảng, toàn Dân, toàn quân ta toàn tâm, ra sức thực hiện Di chúc của Bác Hồ kính yêu, đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; đã đạt được thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đã giúp chúng ta thêm thấu hiểu Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Di sản vô giá của Đảng ta, Nhân dân ta. Đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng càng khắc sâu tình cảm thiêng liêng của Bác Hồ dành cho:
“Nước ta là một, dân tộc ta là một”, “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”(1); sinh thời, ngày đêm Người luôn nhớ đồng bào, chiến sĩ miền Nam với tấm lòng thương yêu không bờ bến.
Bác Hồ qua đời là một tổn thất vô cùng lớn lao của Đảng và Nhân dân ta. Theo lệnh của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã lãnh đạo yêu cầu ngừng bắn trong ba ngày để thọ tang Bác Hồ, thành kính tổ chức truy điệu Người.
Giữa trung tâm đầu não của kẻ thù, Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định để tang Bác Hồ bằng nhiều hình thức. Các cơ sở cách mạng, nhiều khu phố lao động, trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động, chùa Khánh Hưng (2) và nhiều tổ chức công khai tổ chức Lễ truy điệu Bác, chép và chuyền tay nhau đọc Di chúc thiêng liêng của Người, bất chấp kẻ địch rình mò, ngăn cản, bắt bớ,…
Chùa Quan Thế Âm cùng nhiều chùa khác tổ chức Lễ cầu siêu Bác. Báo chí công khai đăng nhiều bài ca ngợi công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho mọi người xúc động; kẻ thù căm tức.
Trong ngục tù của đế quốc và tay sai, mặc dù đến cuối năm 1969, năm 1970 mới biết tin Bác qua đời, nhưng các chiến sĩ cách mạng đã tìm mọi cách để tang Bác, đặc biệt là nhiều đồng chí đã học thuộc lòng Di chúc của Bác và bằng nhiều cách để truyền đạt lại cho đồng chí khác, bất chấp mọi cực hình tra tấn hết sức dã man của kẻ địch.
Chúng ta đều biết, giai đoạn này, sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, địch phản kích bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ráo riết thực hiện kế hoạch bình định vô cùng thâm độc. Lực lượng vũ trang của ta bị địch đẩy lùi dần ra khỏi chiến trường đô thị và vùng ven đô, lâm vào thế mất đất, mất dân. Khu ủy và nhiều đơn vị trực thuộc phải chuyển căn cứ đến các tỉnh xa Sài Gòn.
Trong những tháng ngày đương đầu với vô vàn khó khăn, đấu tranh khốc liệt của cuộc kháng chiến, Đảng bộ, Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã đồng tâm nén đau thương, biến đau thương thành hành động cách mạng, đạp bằng mọi trở lực, mọi khó khăn, thách thức.
Ngay trong tháng 9 năm 1969, Khu ủy mở hội nghị cán bộ quán triệt và thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về đợt sinh hoạt chính trị “Học tập và làm theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã góp phần nâng cao tinh thần cách mạng tiến công, phẩm chất chính trị, khí phách anh hùng của cán bộ, chiến sĩ Đảng bộ thành phố.
Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu thực sự thấm nhuần trong Đảng bộ và Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, là động lực chính trị và tinh thần to lớn, quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện Di chúc Bác, thực hiện lời thề trước anh linh của Người:
“Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người”, qua 3 hội nghị Bình Giã (Bình Giã là mật danh của Khu ủy) từ Thu Đông năm 1969 đến mùa Xuân năm 1972, Khu ủy lãnh đạo Đảng bộ và Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định dấy lên khí thế cách mạng tiến công, làm xoay chuyển tình thế.
Từ chỗ chỉ còn 14 chi bộ, 175 đảng viên trong năm 1972, đến mùa Thu năm 1974, Đảng bộ đã khôi phục được 152 chi bộ; phát triển 1.237 đảng viên, 4.882 đoàn viên, hội viên, đội viên du kích, hơn 33.000 quần chúng nòng cốt; xây dựng 70 lõm chính trị, 400 tổ chức công khai và nhiều cơ sở, kho tàng, hầm cất giấu vũ khí,…
Chỉ tính trong 9 tháng đầu năm 1974, các lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã đánh hơn 1.000 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 5.000 tên địch, bắn hỏng 9 máy bay, 9 tàu xuồng, phá hủy 55 xe quân sự, đánh kho xăng dầu Nhà Bè thiêu hủy 2,4 triệu lít,… buộc địch co về phòng thủ Sài Gòn.
Trong năm 1974, hàng vạn lượt công nhân, học sinh, sinh viên xuống đường đấu tranh chống Mỹ; nhiều tổ chức công khai đòi thi hành Hiệp định Paris, đòi quyền sống, chống các quy định và sắc luật kiểu phát xít; hơn 300 linh mục ra tuyên cáo chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu;...(3)
Cùng cả nước, Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã chủ động và tích cực bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Lực lượng quần chúng ở nội thành đã nổi dậy tước vũ khí lực lượng phòng vệ dân sự, trấn áp bọn ác ôn, kêu gọi cảnh sát, binh lính quân đội Sài Gòn đầu hàng, làm tan rã chính quyền địch ở cơ sở.
Cán bộ, chiến sĩ nội thành cùng quần chúng cách mạng đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở kinh tế, nhà máy, xí nghiệp, cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế quan trọng, không cho địch phá hoại; đã góp phần rất quan trọng trong công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định với cơ sở vật chất hầu như nguyên vẹn.
Thắng lợi ấy, đều bắt nguồn từ quyết tâm sắt đá thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.
Đất nước thống nhất, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vinh dự, tự hào được mang tên Thành phố Hồ Chí Minh. Đảng bộ và Nhân dân thành phố lại càng ra sức thực hiện Di chúc của Người:
“Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”.
Bác chỉ rõ: “Phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”.
Mười năm đầu sau ngày giải phóng, đất nước ở trong tình thế bị bao vây, cấm vận, cùng sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, chúng ta lại buộc phải thực hiện hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc.
Trong bối cảnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh phải đối mặt với những khó khăn, thử thách hết sức gay gắt, nhất là kinh tế kiệt quệ, nạn đói đe dọa và rất nhiều vấn đề phức tạp từ hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại mà thành phố là một địa bàn trọng điểm trên nhiều mặt, các thế lực thù địch tập trung đánh phá.
Kiên định thực hiện Di chúc của Bác, Đảng bộ và Nhân dân thành phố đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Ngày 15 tháng 6 năm 1975, Hội nghị Thành ủy lần thứ nhất ra Nghị quyết, trong đó, có nhiệm vụ hàng đầu là tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, xây dựng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ không ngừng nâng cao phẩm chất, trình độ năng lực để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Thành ủy vừa tập trung công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng, vừa đôn đáo “chạy gạo”, chăm lo đời sống các mặt cho Dân, vừa tập trung xây dựng, củng cố an ninh - quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo cuộc sống bình yên của Nhân dân, vừa tìm mọi giải pháp để “cởi trói”, làm “bung ra” sức sản xuất của xã hội.
Đảng bộ và Nhân dân thành phố đã có những bước đột phá, tháo gỡ vướng mắc, đấu tranh và từng bước chiến thắng những trở lực của cơ chế cũ, làm sáng tỏ dần đường đi và cách làm mới, tư duy mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn Dân ta một bản Di chúc vô cùng quý báu.
Trải qua nửa thế kỷ, toàn Đảng, toàn Dân, toàn quân ta toàn tâm, ra sức thực hiện Di chúc của Bác Hồ kính yêu, đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; đã đạt được thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đã giúp chúng ta thêm thấu hiểu Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Di sản vô giá của Đảng ta, Nhân dân ta. Đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng càng khắc sâu tình cảm thiêng liêng của Bác Hồ dành cho:
“Nước ta là một, dân tộc ta là một”, “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”(1); sinh thời, ngày đêm Người luôn nhớ đồng bào, chiến sĩ miền Nam với tấm lòng thương yêu không bờ bến.
Bác Hồ qua đời là một tổn thất vô cùng lớn lao của Đảng và Nhân dân ta. Theo lệnh của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã lãnh đạo yêu cầu ngừng bắn trong ba ngày để thọ tang Bác Hồ, thành kính tổ chức truy điệu Người.
Giữa trung tâm đầu não của kẻ thù, Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định để tang Bác Hồ bằng nhiều hình thức. Các cơ sở cách mạng, nhiều khu phố lao động, trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động, chùa Khánh Hưng (2) và nhiều tổ chức công khai tổ chức Lễ truy điệu Bác, chép và chuyền tay nhau đọc Di chúc thiêng liêng của Người, bất chấp kẻ địch rình mò, ngăn cản, bắt bớ,…
Chùa Quan Thế Âm cùng nhiều chùa khác tổ chức Lễ cầu siêu Bác. Báo chí công khai đăng nhiều bài ca ngợi công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho mọi người xúc động; kẻ thù căm tức.
Trong ngục tù của đế quốc và tay sai, mặc dù đến cuối năm 1969, năm 1970 mới biết tin Bác qua đời, nhưng các chiến sĩ cách mạng đã tìm mọi cách để tang Bác, đặc biệt là nhiều đồng chí đã học thuộc lòng Di chúc của Bác và bằng nhiều cách để truyền đạt lại cho đồng chí khác, bất chấp mọi cực hình tra tấn hết sức dã man của kẻ địch.
Chúng ta đều biết, giai đoạn này, sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, địch phản kích bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ráo riết thực hiện kế hoạch bình định vô cùng thâm độc. Lực lượng vũ trang của ta bị địch đẩy lùi dần ra khỏi chiến trường đô thị và vùng ven đô, lâm vào thế mất đất, mất dân. Khu ủy và nhiều đơn vị trực thuộc phải chuyển căn cứ đến các tỉnh xa Sài Gòn.
Trong những tháng ngày đương đầu với vô vàn khó khăn, đấu tranh khốc liệt của cuộc kháng chiến, Đảng bộ, Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã đồng tâm nén đau thương, biến đau thương thành hành động cách mạng, đạp bằng mọi trở lực, mọi khó khăn, thách thức.
Ngay trong tháng 9 năm 1969, Khu ủy mở hội nghị cán bộ quán triệt và thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về đợt sinh hoạt chính trị “Học tập và làm theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã góp phần nâng cao tinh thần cách mạng tiến công, phẩm chất chính trị, khí phách anh hùng của cán bộ, chiến sĩ Đảng bộ thành phố.
Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu thực sự thấm nhuần trong Đảng bộ và Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, là động lực chính trị và tinh thần to lớn, quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện Di chúc Bác, thực hiện lời thề trước anh linh của Người:
“Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người”, qua 3 hội nghị Bình Giã (Bình Giã là mật danh của Khu ủy) từ Thu Đông năm 1969 đến mùa Xuân năm 1972, Khu ủy lãnh đạo Đảng bộ và Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định dấy lên khí thế cách mạng tiến công, làm xoay chuyển tình thế.
Từ chỗ chỉ còn 14 chi bộ, 175 đảng viên trong năm 1972, đến mùa Thu năm 1974, Đảng bộ đã khôi phục được 152 chi bộ; phát triển 1.237 đảng viên, 4.882 đoàn viên, hội viên, đội viên du kích, hơn 33.000 quần chúng nòng cốt; xây dựng 70 lõm chính trị, 400 tổ chức công khai và nhiều cơ sở, kho tàng, hầm cất giấu vũ khí,…
Chỉ tính trong 9 tháng đầu năm 1974, các lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã đánh hơn 1.000 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 5.000 tên địch, bắn hỏng 9 máy bay, 9 tàu xuồng, phá hủy 55 xe quân sự, đánh kho xăng dầu Nhà Bè thiêu hủy 2,4 triệu lít,… buộc địch co về phòng thủ Sài Gòn.
Trong năm 1974, hàng vạn lượt công nhân, học sinh, sinh viên xuống đường đấu tranh chống Mỹ; nhiều tổ chức công khai đòi thi hành Hiệp định Paris, đòi quyền sống, chống các quy định và sắc luật kiểu phát xít; hơn 300 linh mục ra tuyên cáo chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu;...(3)
Cùng cả nước, Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã chủ động và tích cực bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Lực lượng quần chúng ở nội thành đã nổi dậy tước vũ khí lực lượng phòng vệ dân sự, trấn áp bọn ác ôn, kêu gọi cảnh sát, binh lính quân đội Sài Gòn đầu hàng, làm tan rã chính quyền địch ở cơ sở.
Cán bộ, chiến sĩ nội thành cùng quần chúng cách mạng đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở kinh tế, nhà máy, xí nghiệp, cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế quan trọng, không cho địch phá hoại; đã góp phần rất quan trọng trong công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định với cơ sở vật chất hầu như nguyên vẹn.
Thắng lợi ấy, đều bắt nguồn từ quyết tâm sắt đá thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.
Đất nước thống nhất, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vinh dự, tự hào được mang tên Thành phố Hồ Chí Minh. Đảng bộ và Nhân dân thành phố lại càng ra sức thực hiện Di chúc của Người:
“Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”.
Bác chỉ rõ: “Phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”.
Mười năm đầu sau ngày giải phóng, đất nước ở trong tình thế bị bao vây, cấm vận, cùng sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, chúng ta lại buộc phải thực hiện hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc.
Trong bối cảnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh phải đối mặt với những khó khăn, thử thách hết sức gay gắt, nhất là kinh tế kiệt quệ, nạn đói đe dọa và rất nhiều vấn đề phức tạp từ hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại mà thành phố là một địa bàn trọng điểm trên nhiều mặt, các thế lực thù địch tập trung đánh phá.
Kiên định thực hiện Di chúc của Bác, Đảng bộ và Nhân dân thành phố đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Ngày 15 tháng 6 năm 1975, Hội nghị Thành ủy lần thứ nhất ra Nghị quyết, trong đó, có nhiệm vụ hàng đầu là tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, xây dựng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ không ngừng nâng cao phẩm chất, trình độ năng lực để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Thành ủy vừa tập trung công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng, vừa đôn đáo “chạy gạo”, chăm lo đời sống các mặt cho Dân, vừa tập trung xây dựng, củng cố an ninh - quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo cuộc sống bình yên của Nhân dân, vừa tìm mọi giải pháp để “cởi trói”, làm “bung ra” sức sản xuất của xã hội.
Đảng bộ và Nhân dân thành phố đã có những bước đột phá, tháo gỡ vướng mắc, đấu tranh và từng bước chiến thắng những trở lực của cơ chế cũ, làm sáng tỏ dần đường đi và cách làm mới, tư duy mới.
Từ một thành phố tiêu thụ, các tệ nạn xã hội và thất nghiệp tràn lan, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội chủ yếu phục vụ chiến tranh; sau thời gian khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, xây dựng xã hội mới, đời sống văn hóa mới, đã từng bước phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trở nên là một thành phố sản xuất - kinh doanh với lớp người lao động mới.
Đó thực sự là một quá trình thực hiện điều Bác căn dặn trong Di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Trải qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến căn bản về kinh tế - văn hóa - xã hội, luôn giữ vững ổn định chính trị - xã hội, không ngừng xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của cả nước.
Kinh tế thành phố không ngừng phát triển, sức sáng tạo của Nhân dân trong hoạt động kinh tế được khơi dậy mạnh mẽ, các điển hình, mô hình quản lý kinh tế mới được hình thành, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, các nguồn lực, tiềm năng, lợi thế được phát huy, các ngành, lĩnh vực đều phát triển, các thành phần kinh tế chuyển biến tích cực, vươn lên mạnh mẽ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhiều năm liền đạt 2 con số, riêng giai đoạn 2011 - 2015, GDP trên địa bàn thành phố tăng gấp 1,63 lần mức tăng bình quân cả nước, cao hơn chỉ tiêu Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị đề ra (1,5 lần)(4).
Các loại thị trường từng bước hình thành và phát triển; hợp tác kinh tế trong nước và với nước ngoài ngày càng mở rộng. Quy mô kinh tế thành phố trong 10 năm (2005 - 2014) tăng lên gấp hơn 5 lần (GDP giá thực tế 852.523 tỷ đồng/165.297 tỷ đồng)(5).
Kinh tế thành phố đóng góp ngày càng lớn vào quá trình tăng trưởng và quy mô kinh tế cả nước. GDP trên địa bàn thành phố năm 1985 chiếm 13%, đến năm 2015 chiếm 22,8% GDP cả nước (957.358 tỷ đồng/4.193.100 tỷ đồng)(6). Vị trí, vai trò kinh tế của thành phố đối với cả nước ngày càng khẳng định và nâng cao.
Đời sống Nhân dân được ổn định và không ngừng nâng lên. Đảng bộ thành phố luôn quan tâm chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của Nhân dân. Gắn tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng sống, phát triển văn hóa, xây dựng và phát triển con người.
Thành phố là nơi khởi xướng và bền bỉ thực hiện tốt các phong trào đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương; chương trình xóa đói giảm nghèo, giảm nghèo bền vững; chương trình bảo trợ bệnh nhân nghèo; đem lại nụ cười cho trẻ thơ, đem lại ánh sáng cho người mù.
Góp phần chia sẻ khó khăn với Nhân dân các địa phương trong nước, nhất là khắc phục hậu quả thiên tai và hỗ trợ các địa phương bạn Lào và Campuchia.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đã cơ bản hoàn thành, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, thay đổi diện mạo nông thôn, nâng cao đời sống cư dân nông thôn; kéo giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị từ 1,8 lần năm 2008 giảm xuống còn 1,2 lần năm 2014(7).
GDP bình quân đầu người trên địa bàn thành phố năm 1995 là 712USD, đến năm 2015 nâng lên 5.538USD, gấp 2,37 lần bình quân cả nước(8).
Từ đó đã mang lại nhiều kết quả thiết thực, đời sống Nhân dân được nâng cao, có ý nghĩa chính trị, văn hóa, xã hội rộng lớn và có sức lan tỏa, thể hiện sinh động bản chất của chế độ ta.
Thành phố luôn giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ. Phát huy sức mạnh tổng hợp, chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, chống phá của các thế lực thù địch;
Triển khai hiệu quả phương án chủ động đối phó, xử lý đúng đắn, kịp thời, hiệu quả các nhân tố gây mất ổn định, những vấn đề phức tạp phát sinh, các tình huống gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; giữ vững ổn định, bảo đảm môi trường đầu tư, các hoạt động sản xuất - kinh doanh, sinh hoạt của Nhân dân.
Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật trong các tầng lớp Nhân dân; tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
Gắn phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội với tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân trên cơ sở xây dựng, bổ sung, điều chỉnh và thực hiện tốt các chính sách thuận lòng dân; bền bỉ tổ chức phong trào vì biển, đảo quê hương, vì tuyến đầu Tổ quốc.
Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang thành phố vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tích cực đóng góp nâng cao khả năng phòng thủ đất nước.
Hệ thống chính trị ngày càng được củng cố, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, quản lý của chính quyền được nâng lên; dân chủ được mở rộng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng mạnh hơn.
Bác Hồ đặc biệt quan tâm về xây dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xem đó là nhân tố then chốt, quyết định sự thành bại của cách mạng.
Trong Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: “Trước hết là nói về Đảng”; “việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân”.
Người nhắc nhở phải: “Thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình”, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
Nhận thức sâu sắc Di chúc của Bác, Đảng bộ thành phố luôn quan tâm công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước.
Đảng bộ luôn kiên định lập trường, bản lĩnh chính trị, thực hiện xây dựng, chỉnh đốn mình để ngang tầm nhiệm vụ. Trước các tác động tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường,… Đảng bộ vẫn đủ sức đấu tranh xây dựng nội bộ để vượt qua, giữ vững tính tiên phong, gương mẫu.
Những năm gần đây, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng gắn với thực hiện các Chỉ thị của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh được tăng cường, đạt kết quả quan trọng trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Trong đó, đặc biệt tăng cường mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, nỗ lực chăm lo tốt hơn đời sống Nhân dân, giải quyết những vấn đề bức xúc của Nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt kết quả thiết thực, có tác dụng răn đe, phòng ngừa,…
Qua đó đã tạo sự chuyển biến tích cực cả trong nhận thức và hành động, góp phần ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng được củng cố, chất lượng cán bộ, đảng viên được nâng lên.
* * *
Nhìn lại quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển thành phố, với tinh thần đoàn kết và sự phấn đấu, nỗ lực cao độ của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Vị trí, vai trò đầu tàu về kinh tế - xã hội của thành phố đối với khu vực và cả nước tiếp tục được phát huy, góp phần cùng cả nước kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Những thành tựu đó đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng; đánh dấu sự trưởng thành trong lãnh đạo, quản lý của Đảng bộ và chính quyền thành phố; tính năng động, sáng tạo của con người thành phố, sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được tôn vinh và phát huy, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn.
Đến nay Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước.
Từ thực tiễn của Thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần để Trung ương nghiên cứu hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt trên hai vấn đề lớn là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, soi lại mình với những điều Bác Hồ hằng mong: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,…” thì chúng ta còn những hạn chế, thiếu sót.
Đó là, kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của thành phố; chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế còn chậm, tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao còn thấp trong cơ cấu kinh tế; chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố trong hội nhập quốc tế chưa cao.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Kết cấu hạ tầng đô thị quá tải, cản trở tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống Nhân dân. Phát triển văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị trí là trung tâm lớn của vùng và cả nước.
Một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được khắc phục; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể gây bất ổn.
Công tác xây dựng Đảng trên một số mặt còn hạn chế, còn một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động về phẩm chất chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái, sa sút về phẩm chất đạo đức; công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và xây dựng hệ thống chính trị chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
* * *
Qua Tọa đàm này, Đảng bộ thành phố tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, thấm nhuần hơn Di chúc của Bác Hồ kính yêu, để chúng ta luôn tu dưỡng, rèn luyện trong cuộc sống và nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao.
Do vậy, điều trước tiên là mỗi đảng viên, cán bộ phải có ý thức chuyên tâm học tập và làm theo Bác Hồ, đặc biệt là những điều Bác đã căn dặn trong Di chúc thiêng liêng.
Đồng thời, qua tổng kết từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã rút ra những bài học kinh nghiệm hết sức phong phú qua các kỳ Đại hội.
- Thứ nhất, phát huy tính năng động, sáng tạo của con người thành phố luôn luôn là bài học quý báu của cả quá trình phấn đấu vượt qua bao khó khăn, thách thức và trưởng thành, đã trở thành truyền thống, thế mạnh của thành phố.
Việc quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của thành phố trong từng giai đoạn; đặc biệt trong suốt hơn 40 năm xây dựng, bảo vệ và phát triển thành phố, xây dựng hệ thống chính trị, cũng như những đóng góp tích cực trong việc tháo gỡ cơ chế cũ không phù hợp, góp phần hình thành và hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng đã minh chứng điều đó.
Tính năng động, sáng tạo làm cho thành phố luôn thích ứng với mặt tích cực của cơ chế thị trường, thúc đẩy con người thành phố quan tâm đến chất lượng, hiệu quả công việc, nhạy bén trong hoạt động, đổi mới trong công việc.
Mặt khác, những hạn chế trong phát triển kinh tế, những yếu kém, tồn tại trong nhiều lĩnh vực chậm được khắc phục đều có nguyên nhân do chưa phát huy cao nhất thế mạnh này.
Đây là bài học luôn mang tính thời sự, vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài; là nguồn lực to lớn, sức mạnh của thành phố, cần phải được tiếp tục khai thác, phát huy mạnh mẽ;
Phải luôn nhạy bén, bám sát thực tiễn, phát hiện kịp thời, mạnh dạn giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong điều kiện có nhiều khó khăn, phức tạp; kịp thời đề xuất Trung ương sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách không còn phù hợp hoặc thí điểm những cơ chế, chính sách mới từ thực tiễn.
- Thứ hai, luôn quan tâm nâng cao chất lượng sống của Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách phải vì Nhân dân, xuất phát từ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của Nhân dân; giảm khoảng cách nghèo, giàu trong các tầng lớp dân cư, không ngừng nâng cao chất lượng sống của Nhân dân.
Điều đó đòi hỏi các cấp, các ngành, mỗi cán bộ, đảng viên phải bám sát thực tiễn, trọng dân, tin dân, lắng nghe ý kiến của dân và kịp thời giải quyết thỏa đáng các vấn đề bức xúc của Nhân dân, quan tâm nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhân dân, không ngừng nỗ lực chăm lo tốt đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của Nhân dân, nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ Nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Càng khó khăn, trắc trở càng phải lắng nghe dân, dựa vào dân, xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Thứ ba, nhận thức đúng vai trò, vị trí của thành phố đối với cả nước về yêu cầu bảo đảm giữ vững ổn định chính trị trong mọi tình huống.
Đây là kinh nghiệm thực tiễn vừa mang tính thời sự, cấp bách, vừa cơ bản lâu dài. Ổn định chính trị là tiền đề để kinh tế - văn hóa - xã hội phát triển bền vững và kinh tế - văn hóa - xã hội phát triển bền vững sẽ góp phần giữ vững ổn định chính trị trong mọi tình huống.
Kiên quyết bảo vệ sự ổn định chính là bảo vệ thành quả cách mạng đạt được, bảo vệ cuộc sống bình yên của Nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền.
Nền tảng của ổn định chính trị - xã hội là an dân, là củng cố niềm tin ngày càng vững chắc của Nhân dân đối với Đảng và chính quyền.
Do vậy, Đảng bộ thành phố cần luôn quan tâm chăm lo, củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị nòng cốt ngày càng vững mạnh để giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, không để bị động bất ngờ, giữ vững ổn định chính trị trong mọi tình huống, đáp ứng mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
- Thứ tư, trong chỉ đạo tổ chức thực hiện phải thật sâu sát và cụ thể, đồng bộ và kiên quyết. Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải kiên trì, kiên quyết thực hiện cho kỳ được mục tiêu khi đã xác định là đúng đắn, vì lợi ích của toàn xã hội.
Đây thực chất là sự thay đổi phong cách làm việc, vừa phải đề cao dân chủ bàn bạc, phát huy trí tuệ của tập thể và Nhân dân, vừa phải tăng cường trách nhiệm cá nhân.
Từng thời điểm phải có sự tập trung cao, dám quyết đoán, dám đưa ra những chủ trương và giải pháp đột phá; biết tổ chức sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các lực lượng, đơn vị.
Đồng thời, phải chú trọng tìm tòi trong thực tiễn những cách làm hay, mới, nhân rộng các mô hình hiệu quả, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng cùng đồng tâm hiệp lực thực hiện.
Ai đã chống lệnh Thủ tướng trong vụ Thủ Thiêm?
Bài học này đã được thực tiễn phong phú của thành phố minh chứng bằng những kết quả đạt được cũng như những hạn chế yếu kém trong thời gian qua; đặc biệt là được rút kinh nghiệm từ kết quả thực hiện những mục tiêu của các chương trình, công trình trọng điểm, đột phá do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố các nhiệm kỳ đề ra.
- Thứ năm, phải hết sức coi trọng kiểm tra việc thực hiện, nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn và không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo.
Đảng bộ có những chủ trương, chính sách hợp lòng Dân, mang lại kết quả có ý nghĩa kinh tế, chính trị - xã hội rộng lớn không chỉ cho bản thân thành phố, mà còn đóng góp cho sự lãnh đạo của Đảng.
Nhưng việc chỉ đạo kiểm tra thực hiện chưa thường xuyên, việc sơ kết, tổng kết thực tiễn chưa đầy đủ và sâu sắc, do đó, chưa nhân rộng những nhân tố tích cực, chưa kịp thời phổ biến những kinh nghiệm thực tiễn.
Từ đó, chưa giúp cấp ủy có cơ sở khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, chính sách hoặc những sai sót để chấn chỉnh, bổ sung làm cho những nghị quyết đúng ngày càng đi vào cuộc sống một cách sâu rộng. Mặt khác, chưa chú ý đổi mới phương thức lãnh đạo đối với chính quyền;
Chưa giải quyết hài hòa giữa lãnh đạo toàn diện và chỉ đạo trọng tâm, trọng điểm, dẫn đến tình trạng bề bộn công việc sự vụ, hội họp nhiều, chẳng những hiệu quả không cao, mà còn sinh ra trì trệ.
Đây là bài học kinh nghiệm vừa có ý nghĩa thiết thực trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy và chính quyền các cấp.
- Thứ sáu, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng bộ thành phố trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải là gương sáng về phẩm chất cách mạng, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức, tận tâm, tận lực phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
Đặc biệt, yêu cầu của một Đảng cầm quyền, trước mắt và lâu dài phải hết sức chú trọng chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của Nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong nội bộ và trong xã hội.
Các cấp ủy phải luôn đoàn kết, thống nhất trên cơ sở thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; bám sát thực tiễn, dự báo sát tình hình, có giải pháp tích cực để thực hiện đạt hiệu quả cao nhất mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu.
Công tác xây dựng Đảng bộ phải thực sự đồng bộ, kiên quyết, kiên trì trên cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tinh thần các nghị quyết Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện các chỉ thị của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nêu cao tính tự giác của mỗi đảng viên, cán bộ, tổ chức đảng và cả hệ thống chính trị.
Đồng thời, tăng cường thực hiện các giải pháp dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng bộ.
Từ đó phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và Nhân dân thành phố, làm cho mọi tiềm năng được khai thác và phát triển, cả tri thức và tình cảm; tạo ra nội lực to lớn để thực hiện tốt nhất yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thành phố.
Đó vừa là truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, nghĩa tình của con người thành phố, vừa là vị trí, vai trò của thành phố luôn “vì cả nước, cùng cả nước”.
Nhận thức được đầy đủ, sâu sắc bài học kinh nghiệm này và qua các phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực, chắc chắn sẽ tạo nên sức mạnh ngày càng to lớn hơn để xây dựng, bảo vệ và phát triển thành phố.
* * *
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Đảng bộ và Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nguyện toàn tâm, toàn lực học tập và làm theo Di chúc của Người để mãi xứng đáng là thành phố mang tên Bác, xứng đáng được giữ trong tâm khảm của mình vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của Đảng ta, Nhân dân ta, của Đảng bộ và Nhân dân thành phố mang tên Bác, thành phố Anh hùng.
Ghi chú:
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.627.
2. Thượng tọa Thích Pháp Lan trụ trì, công khai đứng ra tổ chức Lễ truy điệu Bác Hồ, có mâm quả xếp nổi lên thành hình cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc và câu đối chữ Nho: “Nam - Bắc toàn dân quy thượng chính/ Á - Âu thế giới kính tu mi”.
3. Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930-1975, các trang 848, 874, 875 và 876.
4. Kết luận số 21-KL/TW, ngày 24 tháng 10 năm 2017 của Bộ Chính trị về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 16- NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ X, trang 65.
6. Niên giám thống kê - Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016, trang 45 và trang 337.
7. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ X, trang 78.
8. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ X, trang 13.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét