Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2014

Ai là tể tướng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam?

Ai là tể tướng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam?
Là vị tể tướng đầu tiên trong lịch sử nước ta, Nguyễn Bặc đã giúp vua Đinh Tiên Hoàng trong việc dựng chính quyền, lập triều nghi, chấn hưng kinh tế, củng cố nền độc lập. Do có nhiều công lao to lớn, khi mất Nguyễn Bặc được nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi.
Tượng thờ Nguyễn Bặc. 
Nhường chức đệ nhất công thần 
Nguyễn Bặc là con của Nguyễn Thước, một nha tướng của Dương Đình Nghệ. Ông sinh năm Giáp Thân (924) ở Sách Bông, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Nguyễn Bặc cùng tuổi, cùng quê với Đinh Bộ Lĩnh. Thuở nhỏ cùng nhau tập trận cờ lau, lớn lên lại kết nghĩa anh em với nhau.

Năm Đinh Hợi (951), Đinh Bộ Lĩnh dấy nghĩa ở đội Linh Sơn, động Hoa Lư để dẹp 12 sứ quân, quy giang sơn về một mối. Nguyễn Bặc đã tham gia khởi nghĩa và là vị tướng tài ba của Đinh Bộ Lĩnh. Ông chỉ huy các trận đánh buộc Phạm Bạch Hổ (Phạm Phòng Át) ở Đằng Châu (Hải Dương), Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm (Sơn Tây) và Ngô Dương Xí ở Bình Kiều (Thanh Hoá) phải quy thuận. 

Trận đánh sứ quân Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt (xã Tứ Hiệp, Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội ngày nay) là một trận đánh lớn. Đinh Bộ Lĩnh cử các tướng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Cao Sơn, Đinh Thiết đi đánh dẹp Nguyễn Siêu, cả bốn tướng đều hy sinh anh dũng trong chiến trận. Đinh Bộ Lĩnh thân chinh đem quân đi đánh, cử đại tướng Nguyễn Bặc làm tiên phong đánh tan đội quân của Nguyễn Siêu vào trung tuần tháng bảy năm Đinh Mão (967).

Trong trận đánh sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Bặc chỉ huy cánh quân đánh vào thành Trại Quyền (Quốc Oai).

Năm Mậu Thìn (968), sau khi dẹp xong 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, phong cho Nguyễn Bặc làm đệ nhất công thần. Ông đã xin nhường chức ấy cho Đinh Điền là người cùng họ với vua và xin đứng thứ hai trong "tứ trụ triều đình" (đó là các vị Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú và Lưu Cơ).

Vị tể tướng đầu tiên của nước ta

Năm Tân Mùi (971) Nguyễn Bặc được Đinh Tiên Hoàng phong là Khai quốc công thần, Phụ quốc, Thừa tướng, Thái tể, Định quốc công, tức là vị tể tướng đầu tiên trong lịch sử nước ta. Nguyễn Bặc đã giúp vua Đinh Tiên Hoàng trong việc dựng chính quyền tập trung, thống nhất, lập triều nghi, xây cung điện, chấn hưng kinh tế, đắp thành quách, đào hào, củng cố nền độc lập, sẵn sàng chống lại sự xâm lược của quan quân nhà Tống.

Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, Nguyễn Bặc cùng Đinh Điền làm phụ chính cho Đinh Phế Đế. Trước cảnh Thập đạo tướng quân Lê Hoàn chuyên quyền, ông đã cùng Đinh Điền, Phạm Hạp khởi binh đánh Lê Hoàn, nhưng bị thua. Nguyễn Bặc bị bắt và bị giết hại khi 56 tuổi.

Do có nhiều công lao to lớn với nhà Đinh và với đất nước, khi mất Nguyễn Bặc được nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi (có tới 35 nơi lập đền thờ). Nơi có đền thờ vua Đinh đều thờ cả Nguyễn Bặc và Đinh Điền. Ở Hoa Lư ngoài đền thờ vua Đinh còn có một đền thờ riêng Nguyễn Bặc. 

Tại đình Ba Dân có đôi câu đối ca ngợi công đức Thành hoàng Định Quốc công Nguyễn Bặc như sau: "Duy nhất tâm ái quốc trung quân, chính thống phù Đinh khai đế Việt/Xướng vạn thế danh thần nghĩa sĩ, uy thanh bình sứ lãm thiên Nam" (Duy có một lòng yêu nước trung vua, chính thống phò vua Đinh, mở ra nước Việt/Lừng vạn thế danh thân nghĩa sĩ, uy danh dẹp sứ tướng, lẫm liệt trời Nam).

Đình Ba Dân thuộc xã Tứ Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử ngày 25/1/1994.
Trịnh Dương

“Sấm truyền” về số mệnh của Đinh Tiên Hoàng

(Kienthuc.net.vn) - Trong sử Nam ta, có nhiều vị vua mà vương nghiệp được tiền nhân dự báo trước qua những lời sấm, ký, thơ ca đầy ẩn ý. Không nằm ngoài lẽ thường ấy, ở thời nhà Đinh, vương nghiệp của Đinh Bộ Lĩnh đã được dự đoán trước, ngay cả hậu vận của ông về sau cũng đã được “tri thiên mệnh” qua nhiều việc khác nhau. 
Viên ngọc khuyết góc
 Trong Đại Việt sử ký tiền biên chép: “Khi vua còn hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thuỷ, giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua đang ngủ say, trong giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy ngọc khuê cho xem. Sư than rằng: Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không được dài.
 Duyên gặp gỡ giữa Đinh Bộ Lĩnh với sư trụ trì chùa Giao Thuỷ (chùa Cổ Lễ, Nam Định nay) được Thiên Nam ngữ lục khái lược rõ hơn. Theo đó, Đinh Bộ Lĩnh vì mâu thuẫn với chú, bị đuổi đánh qua sông Đàm Gia được rồng vàng cứu giá. Lúc ấy, thế còn yếu, chàng đành từ biệt bạn bè, lánh mình làm nghề chài lưới kiếm sống chờ đợi thời cơ:
 Mệnh trời đã định nẻo xưa,
Ngọc khuê dành để đợi chờ đế vương. 
Thường thường có khí hào quang,
Đêm đêm sáng dậy bên giang trùng trùng. 
Bộ Lĩnh hỏi chúng ngư ông, 
“Ấy gì mà sáng dưới sông đấy rầy?”
Chúng ngư bèn bảo rằng bây:
Sáng ở sông này đã mười hai năm.
 Vậy là khi Đinh Bộ Lĩnh ngược xuôi theo sông đánh cá mưu sinh, bởi có duyên tiền định nên được biết tới ánh hào quang phát dưới sông đã mười hai năm. Sau này, như có mệnh báo trước, nghiệp đế của ông cũng kéo dài 12 năm thì dứt chốn hồng trần. Và lại nói, được ngư dân quanh vùng kể cho biết về ánh sáng lạ nơi đáy sông, Đinh Bộ Lĩnh ngờ rằng đó là vật quý, “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, 12 năm ngọc nằm dưới đáy sông không ai biết mà lấy được. Vậy mà đến Đinh Bộ Lĩnh, ông tìm được viên ngọc quý ấy khi quét lưới, như Việt sử diễn âm đời Mạc viết:
 Được một báu vàng đem lên,
Đánh phải đầu thuyền khuyết một góc đi.
 Chính vì ngọc quý “khuyết một góc” đã trở thành điềm trời định dành cho hậu vận sau này của vị vua tương lai. Bắt được ngọc quý, chàng ngư phủ họ Đinh vì trời tối, mưa to gió lớn, mà “lầm đường lạc nẻo khôn thông lối về”. May sao nghe tiếng chuông chùa ghé vào tá túc qua đêm. Sư trụ trì của chùa vốn trước kia làm đạo sĩ tinh thông tướng số, biết nhìn người. Đêm ấy, viên ngọc quý nằm trong giỏ cá “Bỗng sao sáng khắp hòa chiền. Thầy ngờ Phật giáng thầy liền cúng hương”. Câu chuyện về viên ngọc mỗi lúc lại một tỏ:
 Sáng ngày thầy hỏi trước sau,
Ngọc khuê nghĩ mới đem hầu thầy coi.
Nhìn đi nhìn lại một thôi,
Giờ lâu thầy mới mở lời nói ra.
“Con ta phúc đức thay là,
Ngày sau làm chúa quốc gia trị đời.
Nghĩ hiềm phúc hậu chẳng dài,
Vắn dài có số tượng trời đã chia.

Về sau, quả nhiên cái số dương cùng của vua Đinh Tiên Hoàng đúng như lời dự đoán của sư thầy về viên ngọc khuyết phần ấy.
Cảnh mã táng hàm rồng trong điêu khắc ở đình Chu Quyến, Hà Nội (Nguồn: http://www.gdtd.vn)
Cảnh mã táng hàm rồng trong điêu khắc ở đình Chu Quyến, Hà Nội (Nguồn: http://www.gdtd.vn)
Gươm đeo cổ ngựa
Tương truyền ở động Hoa Lư quê Đinh Bộ Lĩnh có cái đầm rất sâu. Mẹ ông thường vẫn vào trong đầm tắm giặt. Ở đầm có con rái cá to lớn sống lâu đã thành tinh. Một hôm, bà bị con rái cá ấy hãm hiếp mà thụ thai. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, Đinh Bộ Lĩnh được sinh hạ.
Ít lâu sau cha ông Đinh Công Trứ qua đời, con rái cá cũng bị người dân bắt được đem làm thịt, bỏ xương vào một xó. Hay tin ấy bà vội đến, nhặt xương và gói ghém để trên gác bếp, bảo với Đinh Bộ Lĩnh đấy là hài cốt của cha.
Đinh Bộ Lĩnh lớn lên khỏe mạnh, có biệt tài bơi lội. Bấy giờ có một thầy địa lý Tàu sang nước ta xem thế đất. Đến Hoa Lư thầy địa lý thấy một tia sáng màu hồng tựa như dải lụa từ đáy đầm chiếu thẳng lên sao Thiên Mã. Đoán ở dưới đầm có linh vật bèn thuê người lặn xuống xem sao. Đinh Bộ Lĩnh nghe tin liền nhận lời ngay. Khi lặn xuống, chàng thấy con ngựa đá đứng dưới đáy đầm, bèn trở lên báo lại. Thầy địa lý bảo chàng lặn xuống mang theo nắm cỏ bỏ vào miệng ngựa, quả nhiên nó há miệng ngậm lấy. Thầy địa lý nói:
- Dưới đầm ắt có ngôi huyệt quý.
Rồi đưa vàng bạc trả cho Đinh Bộ Lĩnh, lại dặn:
- Nay tạm trả chừng này, sau sẽ trả thêm. Ta có việc phải về bản quốc mấy tháng, sẽ gặp sau.
Đinh Bộ Lĩnh biết là huyệt quý ấy ở ngay trong miệng con ngựa, bèn về nói chuyện với mẹ, xem mả cha ở đâu, để đem táng vào huyệt ấy. Bà mẹ lấy nắm xương ở gác bếp đưa cho, chàng bèn cầm lấy bọc cỏ non ở bên ngoài lặn xuống chỗ con ngựa. Khi ngựa vừa há miệng liền đút cả vào. Ngôi huyệt quý về tay mẹ con Đinh Bộ Lĩnh. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh sinh ra bạo tợn, các trẻ chăn trâu đều sợ bầu lên làm tướng, bẻ hoa lau làm cờ, chặt tre làm khí giới, đi đánh nhau với trẻ làng khác. Tiếng tăm ông lừng lẫy, xa gần theo về, lại bầu làm trại trưởng của vùng.
Ít lâu sau, thầy địa lý Trung Quốc sang đem hài cốt của tổ tiên định táng vào miệng ngựa. Nhưng tới nơi thấy kẻ lặn thuê cho mình ngày trước đã trở thành bậc có danh tiếng lừng lẫy, biết là huyệt quý đã bị mất, căm giận lắm mới tìm cách trả thù. Hắn tìm đến Đinh Bộ Lĩnh, giả thác nói:
- Ngôi huyệt quý đã về tay ông. Nhưng, ngựa quý mà chưa có kiếm thì chưa toàn bị. Xin biếu ông một số thanh kiếm quý đeo vào cổ ngựa. Từ nay, ông sẽ ngang dọc khắp thiên hạ, kiếm chỉ tới đâu, giặc tan tới đó.
Đinh Bộ Lĩnh không hiểu hết được phong thuỷ bèn lấy kiếm lặn xuống đầm sâu, đeo vào cổ ngựa đá. Từ đấy đánh đâu được đó, tự xưng là Vạn Thắng Vương, bình định 12 sứ quân và thống nhất giang sơn, mở ra triều Đinh, ở ngôi 12 năm rồi bị sát hại. Người đời cho rằng do Đinh Tiên Hoàng đã mắc mưu thầy địa lý, bởi vì trong khoa Địa lý xưa có câu: “Mã đầu hữu kiếm đới sát” (đầu ngựa mà có gươm là mang sát khí).
Theo Việt sử siêu linh, câu chuyện sau khi tước bỏ huyền thoại, có thể còn lại điểm đất Hoa Lư có hình con ngựa gọi là “thuỷ mã huyệt”, sau này mộ vua Đinh đặt trên núi Mã Yên có nghĩa là trên yên ngựa.
Tượng vua Đinh Tiên Hoàng. Nguồn: Tienphong.vn.)
Tượng vua Đinh Tiên Hoàng. Nguồn: Tienphong.vn.)
Câu sấm động nhân gian    
Lên ngôi cao trong thiên hạ, đến năm Giáp Tuất (974) đời vua Đinh Tiên Hoàng, trong dân gian có bài sấm rằng:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh, 
Lê gia xuất thánh minh, 
Cạnh đầu đa hoành nhi, 
Đạo lộ tuyệt nhân hành, 
Thập nhị xưng đại vương,
Thập ác vô nhất liệt, 
Thập bát tử đăng tiên, 
Kế đô nhập nhị thiên.
Dù câu sấm được cho là xuất hiện ngay trong thời trị vì của Đinh Tiên Hoàng, lại chỉ rõ cả tên kẻ phản nghịch là Đỗ Thích, nhưng vua Đinh vẫn không có biện pháp gì để phòng ngừa dù hậu vận đã được dự báo từ thuở hàn vi. Chính vì thế mà để lại hậu quả lụy đến thân mình.
Tháng 11 năm Kỷ Mão (979), đêm ấy vua Đinh Tiên Hoàng ngự tiệc ở điện với quần thần, uống rượu say quá, nằm ngủ luôn tại bậc thềm của sân điện. Phúc Hầu Hoằng là Đỗ Thích đã có dã tâm từ trước, ra tay giết vua và giết luôn cả Nam Việt Vương Đinh Liễn.
Trước đây, Đỗ Thích làm chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu thấy sao rơi vào mồm, cho là điềm lành được làm vua nên mới manh tâm phản loạn, nhân cơ hội này mà giết vua. Lúc vua đã bị hại rồi, Đỗ Thích lẩn vào trong cung, trốn ở dưới máng xối hơn ba ngày. Khát nước quá, Đỗ Thích lấy tay hứng nước mưa uống. Bọn cung nữ thấy vậy mới báo với Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc bắt mà giết đi, nhưng ba hồn bảy vía của Đinh Tiên Hoàng cũng chẳng thể quay trở lại dương thế.
http://kienthuc.net.vn/tham-cung/sam-truyen-ve-so-menh-cua-dinh-tien-hoang-174274.html
Đinh Bộ Lĩnh (924 - 979) là con của Thứ sử Đinh Công Trứ, người động Hoa Lư, Ninh Bình. Ông có công thống nhất 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt, khai mở triều Đinh, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Đinh Bộ Lĩnh – Đinh Tiên Hoàng còn được biết đến là vị vua xét án bằng “hổ dữ, vạc dầu”, là vị hoàng đế đầu tiên của nước ta lập tới 5 hoàng hậu. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét