Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2015

(2) Xã hội dân sự - Đấu trường hay lớp học?

Xã hội dân sự - Đấu trường hay lớp học?
III.    TRÀO LƯU CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ
Xuất hiện ở châu Âu thế kỷ 18 vào Thời Kỳ Sáng Thế (The Enlightenment), thời đại mà người ta tin tưởng rằng hầu như mọi việc đều hoạt động theo những định luật bất biến và có thể tiên liệu được, thậm chí triết học còn bị toan tính chuyển thành khoa học tự nhiên,  ý niệm XHDS đã  được đưa ra bàn luận sôi nổi và khảo cứu tận tình, với Adam Ferguson, G.F.W. Hegel, Karl Marx, Antonio Gramsci vv. Vậy mà không bao lâu sau lại bị lãng quên đi, mãi cho đến thập niên 1970 khi nó được các nhà hoạt động dân chủ Châu Mỹ Latin và thập niên 1980 khi các nhà tranh đấu Đông Âu nhớ đến và đem ra sử dụng lại để đương đầu với các chính quyền độc tài đương thời. 
Đối với gia đình chính trị học, sự trở về của người con thất lạc từ lâu đã được tiếp đón nồng nhiệt, xem nó là vị cứu tinh cho vấn đề dân chủ đang bị bế tắc.  Trước hết, nó được xem là nguồn sinh lực cho các quốc gia vốn được xem là dân chủ lâu đời, như Bắc Mỹ và châu Âu. Nó  cũng là nguồn hy vọng lớn lao cho các quốc gia đang phát triển mà sau mấy đợt sóng dồn dập đầy phấn khởi, tiến trình dân chủ không những bị khựng lại mà còn bị đẩy lùi nữa, cũng như cho các quốc gia mà các cuộc “cách mạng mùa xuân”, “cách mạng hoa lài” chỉ còn để lại chút mùi hương nhạt nhòa.  Đó là những lý do giúp chúng ta giải thích được sự ra đời phong phú của sách báo về XHDS hiện nay nhằm tìm hiểu khả năng đóng góp của nó cho tiến trình dân chủ hoá tại các nước đang phát triển cũng như củng cố dân chủ tại các nước vốn đã có dân chủ lâu đời.
Tại Hoa Kỳ, tác phẩm khá đồ sộ “De la démocracie en Amérique” của học giả Pháp Alex de Tocqueville, gồm 2 quyển xuất bản năm 1835 và 1840, vốn được dịch ra tiếng Anh từ 1966 và được các nhà lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ trích dẫn nhiều lần, lại được dịch thành 2 quyển sách mới trong thập niên 1990 với những ghi chú chi tiết hơn, cũng như với cả sách giải thích cặn kẽ cách dùng. Như chúng ta đã biết, trong chuyến công du Hoa Kỳ hồi thế kỷ 18 để nghiên cứu chế độ lao tù, Tocqueville đã ngạc nhiên thú vị về nền dân chủ non trẻ của quốc gia này, trong đó ông thích thú về sự hiện diện và sinh hoạt dân chủ của các tổ chức thiện nguyện, các câu lạc bộ, các nhóm tôn giáo, văn hóa, thể thao vv., mà những nhà nghiên cứu sau này gọi đó là các tổ chức XHDS.  Ông cho là những tổ chức này là do dân chúng đứng ra thành lập nhằm giúp đỡ lẫn nhau cũng như để đạt tới những mục tiêu mà chính quyền không có khả năng làm được.
Nhiều nhà nghiên cứu Hoa Kỳ giật mình nghĩ lại cái thời hoàng kim này, sau sự ra đời của tác phẩm “Bowling Alone: The Collapse and Revival of America Community” (1999) của Robert D. Palmer, với những dữ kiện, phân tích tỉ mỉ sinh hoạt của xã hội Hoa Kỳ. Palmer nhận xét rằng ngày nay có nhiều người Mỹ chơi bowling hơn, nhưng họ chỉ chơi một mình thay vì chơi trong trong các hội (leagues). Trong những lãnh vực khác người Mỹ càng ngày càng ít tham gia, chẳng hạn ít đi bầu cử hơn, ít tham gia các hiệp hội hơn, ít đi nhà thờ hơn, ít tham gia nghiệp đoàn hay tổ chức nghề nghiệp hơn, ít tham gia sinh hoạt với khu lân cân láng giềng hơn vv.  Trước đó, người ta không thấy gì bất lợi hay có hại cho xã hội nói chung khi thiếu vắng sự liên lạc giữa các thành viên với nhau trong các tổ chức XHDS, như các hội Phụ Huynh và Giáo Viên (PTA), các câu lạc bộ, các tổ chức từ thiện, nhà thờ vv. thậm chí trong các chính đảng nữa.  Nói khác đi, qua giao tiếp, con người tin cậy nhau, hiểu biết nhau và nối kết với nhau, tạo nên chất keo gắn bó; mà khi khi xã hội mất nó đi, thì con người trong đó cũng dễ trở thành những người xa lạ.  Đây quả là “vốn liếng xã hội” — sẽ được bàn đến sau. Kết luận này là tiếng nói cảnh tỉnh cho bất kỳ một xã hội nào, dù đó là xã hội Hoa Kỳ, nơi có hàng trăm ngàn hiệp hội thiện nguyện vô vị lợi tạo công ăn việc làm cho 9% lực lượng lao động toàn quốc. 
Tại Liên Hiệp Châu Âu, cùng với sự củng cố tổ chức là sự thay đổi quan trọng về định chế và hiến pháp.  Những cải tổ luật lệ mới mẻ nhất trong những năm gần đây phản ảnh sự cương quyết của tổ chức này trong việc duy trì và phát triển dân chủ: ổn định đời sống chính trị của công dân dưới sự cai trị của các chế độ mới, và xây dựng một Liên Hiệp Châu Âu mang nhiều trách nhiệm hơn đối với XHDS. (“The European Court and Civil Society: Ligitation, Mobilization and Governance” , 2007) Trong một dự án có tên là “Toward a European Civil Society”, hơn 40 nhà nghiên cứu, cùng với nhiều học giả khác thuộc 15 viện nghiên cứu trên 10 quốc gia đã cùng nhau làm việc trong hơn 2 năm rưỡi để tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa và sự phát triển của XHDS tại châu Âu. Hai tác phẩm “The Languages of Civil Society” (2006) và “Civil Society: Berlin Perspectives” (2006) là một đóng góp rất quan trọng của dựa án này. Ngoài ra, chúng ta cũng không quên rằng, châu Âu vốn là cái nôi của XHDS không những về phương diện lý thuyết, mà còn là nơi ý niệm XHDS này đã được khơi lại để hành động thành công chấm dứt các chế độ độc tài tại đây; nó cũng như là nơi xuất phát nhiều tổ chức phi chính phủ toàn cầu (global non-government organizations), và nhiều quốc gia châu Âu riêng lẻ đã giúp khá nhiều phương tiện nhân sự và tài chánh cho các tổ chức XHDS ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.  Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong 10 quốc gia có bối cảnh thuận tiện cho sự phát triển các tổ chức XHDS đã có đến 6 quốc gia châu Âu, như kể trên. Năm 2001, đài BBC phát thanh một loạt 12 bài tìm hiểu về XHDS cho dân Anh vào mỗi thứ Năm trong 3 tháng 7, 8 và 9.
Đối với nhiều quốc gia châu Âu không còn Cộng Sản nữa thì tình hình XHDS không có gì sáng sủa mấy, nghĩa là tiến trình dân chủ hoá không đi nhanh như người ta ước mơ.  Trong quyển “Aiding Democracy Abroad: The Learning Curve”  (1999), Thomas  Carothers cho rằng một cuộc cách mạng dân chủ gồm 2 “chương”: “Chương 1”  là chuẩn bị kỹ lưỡng, chờ đợi thời cơ thuận tiện và lật đổ nhà độc tài hay chế độ chuyên chế; và “Chương 2” là  thi hành những biện pháp để chuyển sang dân chủ, từ mức khởi đầu.  Lịch sử cho thấy câu hỏi “Làm thế nào để lật đổ?” (How?) đã tìm ra những câu trả lời tốt.  Nhưng câu hỏi “Làm gì để tiến tới dân chủ?” (What?), có liên quan ít nhiều đến sự hình thành và phát triển của XHDS, thì chưa có những câu trả lời được mọi người đồng thuận.
Lấy trường hợp của Nga. Sau khi Gorbachev “làm cách mạng” để lật đổ cuộc cách mạng 70 tuổi của quê hương mình, thì XHDS đươc mở rộng với hy vọng phục hồi quyền con người,  quyền tự do kinh tế và các quyền công dân khác, cũng sự minh bạch, công bằng của các cơ quan nhà nước. Tiếp theo những cuộc biểu tình chống chiến tranh với Chechnya, những vụ phản kháng các lạm dụng môi sinh, thì các tổ chức XHDS mọc lên như nấm.  Một số trong 2.000 tổ chức XHDS hoạt động cho phong trào dân chủ và quyền con người đã nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ quốc tế (Interntional non-governments organizations, INGOs). Điều sau này lại càng khiến cho các quan chức nhà nước với ít nhiều não trạng cũ xem các tổ chức XHDS này là tay sai ngoại bang, nhất định vung tay làm mạnh: các nhân viên công lực và côn đồ làm nhục các nhân viên INGOs ngoài đường phố cũng như tại các trụ sở của họ; nhiều lần đe dọa cả chính Đại Sứ Anh viện lý do là ông ta can thiệp vào công việc chính trị nước Nga.  Năm 2006, Quốc Hội Nga ra luật buộc các tổ chức XHDS phải công khai tài chánh, khai rõ các nguồn tài trợ và cam kết hoạt động vì quyền lợi quốc gia Nga.  Luật này được áp dụng tức thì và nghiêm nhặt cho tất cả tổ chức XHDS, khoảng 13.000 lúc đó) khiến cho các tổ chức INGOs đang hoạt động ở Nga, như Amnesty International, Human Watch vv. gặp không ít khó khăn. (“A Diplomat Handbook: for Democracy Development Support”) (2013). Điều này không có gì khó hiểu khi mà từ trên, Putin đã “vận dụng Hiến Pháp” để nhảy xuống làm Thủ Tướng rồi lại nhảy lên lại ghế Tổng Thống, và dưới là  guồng máy kềm kẹp tham nhũng không khác mấy thời Cộng Sản; các tổ chức XHDS chỉ là cái gai trong mắt! 
Tại Trung Quốc, muốn được công nhận là một tổ chức XHDS, thì trước hết tổ chức đó phải được một cơ quan nhà nước đỡ đầu, rồi sau đó phải “đăng ký” với Bộ Dân Vụ (Ministry of Civil Affairs). Nếu không tìm được sự đỡ đầu, thì phải đăng ký với tư cách công ty, không những phải qua thủ tục rườm rà, tốn kém, mà trong tương lai còn không được xin gây quỹ xin tiền công chúng. Do đó, muốn có phương tiện hoạt động, các tổ chức XHDS này đành phải trông cậy vào nước ngoài.  Năm 1988 tổng số các tổ chức XHDS là 4.500; đến năm 2010, con số này tăng vọt lên 425.000 hay hơn nữa. Theo qui định tháng 3 năm 2010 thì  khế ước cho và nhận tiền giữa cơ quan tặng dữ (trong cũng như ngoài nước) và các tổ chức XHDS phải được công chứng. Nhờ những tặng dữ đó, mà công cuộc cứu trợ thiên tai bão lụt tương đối nhanh chóng và hiệu quả.  Tuy nhiên các quan chức địa phương cũng rất lo sợ ảnh hưởng của các tổ chức này, vì XHDS sẵn sàng tố cáo những sai phạm của chính quyền địa phương đã dẫn đến thiệt hại sinh mạng và tài sản. Về phần mình, các tổ chức XHDS phải luôn luôn cảnh giác, phải biết lúc nào không được quyền lớn tiếng hay vượt quá một địa phương nào đó; nếu không, sẽ dễ mất nguồn tài trợ, hay phải đi tù, hoặc cả hai! Trong thời gian gần đây, các tổ chức XHDS tại Trung Quốc bị kiểm soát chặt chẽ hơn.
Nhìn sang những nước Á Châu khác, có kinh tế phát triển hay đang lên như Nhật, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore, Mã Lai, chúng ta có thể đưa ra những định tổng quát như sau:
Trước hết, ý niệm về sự hiện diện của đoàn thể, hiệp hội đứng bên ngoài Nhà Nước là một ý niệm tương đối mới mẻ, chỉ xuất hiện sau khi có sự tiếp cận với Tây phương.  Do hoàn cảnh lịch sử, các tổ chức đầu tiên ở các nước này thường có mục tiêu chính trị (chính đảng), nghề nghiệp, hay ái hữu. Thứ đến, sự phát triển đi theo hướng từ trên xuống dưới, tức là chủ trương của chính quyền cho phép XHDS xuất hiện là để nhằm đối phó với những áp lực hay điều kiện từ bên ngoài của các tổ chức quốc tế, các cơ quan viện trợ quốc tế vv. Rồi sau đó, trong khi các các quốc gia Tây phương và các tổ chức này nghĩ rằng, một khi nền kinh tế lớn mạnh, thì các quốc gia nói trên sẽ dễ dãi hơn đối với các tổ chức XHDS hầu đẩy nhanh tiến trình dân chủ hoá, thì ngược lại các chính quyền các nước Á châu lại cho rằng sở dĩ kinh tế phát triển nhanh được là nhờ ở một chính quyền mạnh và ổn định, và cho rằng XHDS sẽ chia bớt quyền lực Nhà Nước và làm suy yếu chính quyền và dễ đưa đến suy yếu kinh tế; do đó sẵn sàng kềm hãm, ức chế sự lớn mạnh của XHDS một khi hoàn cảnh cho phép.
Hiện nay tại nhiều nước trên thế giới, tình trạng XHDS rất phôi thai.  Lý do đầu tiên được nêu ra là tình trạng dân trí.  Chính quyền cho rằng, dân trí thấp sẽ bị “bọn đầu cơ chính trị trong nước” và “lực lượng thù địch hải ngoại” lợi dụng. Nếu quả thực dân trí thấp thì cần phải nâng cao dân trí.  XHDS là nơi các thành viên tương tác và học hỏi lẫn nhau.  Sự tương tác làm cho con người tin cậy lẫn nhau.  Mặc dầu chưa có những nghiên cứu đảm bảo được tính khả hoán của lòng tin –thí dụ ở hội đoàn này, tôi tin lãnh đạo, nhưng khi chuyển sang hội đoàn khác, lòng tin của tôi đối với lãnh đạo mới có giữ được mức độ đó hay không –nhưng lòng tin trong một tổ chức –dù nhỏ hay lớn – là một yếu tố quan trọng giúp đạt được mục tiêu chung, và dù không đạt được mục tiêu chung đi nữa, nhiều nhà nghiên cứu vẫn xem đây là “vốn liếng xã hội” (social capital).
Theo Robert D. Putnam, trong tác phẩm “Democracies in Flux” (2002), khái niệm “vốn liếng xã hội” đã được L. Judon Hanifan đưa ra từ năm 1916. Theo Hanifan, thì “vốn liếng xã hội” không liên hệ gì với đất đai, của cải, tiền bạc vật chất, mà là thiện chí, cảm tình, tinh thần tương thuộc, các mối giao tiếp giữa các cá nhân và gia đình trong cộng đồng.  Và khi các thành viên trong cộng đồng quen biết nhau, gặp gỡ nhau để vui chơi, giải trí, tiếp xúc thì nhờ kỹ năng lãnh đạo mà “vốn liếng xã hội” đó sẽ được sử dụng để cải tiến đời sống của cộng đồng mình ở.  Tuy nhiên, cũng như bất kỳ loại vốn liếng nào, “vốn liếng xã hội” có thể bị sử dụng không đúng chỗ, và có thể gây phương hại cho cộng đồng (thí dụ tạo ra xung đột kỳ thị màu da, tôn giáo). Xã hội làng xã và đại gia đình của Việt Nam là nền tảng thuận lợi cho sự tạo lập và tăng trưởng “vốn liếng xã hội” này, nhưng trong mấy thập niên vừa qua cái nền tảng này đã bị phá vỡ đi nhiều lần qua các sự can thiệp tiêu cực có tích cách thù hận và tạo chia rẽ của chính quyền Cộng Sản. Một điều khá trớ trêu là khi rừng mơ chủ nghĩa quốc tế vô sản chưa bén rễ, thì họ đã đào xới tung tóe cái nền tảng này ngay từ thời kỳ cải cách ruộng đất ngoài Bắc. Và nghịch lý thay ngày nay khi cần đến cái nền tảng đó thì hạnh phúc cá nhân, và xã hội vô cảm đang được thực tế cổ xúy và đang bành trướng!
Lề lối, phong cách giao tiếp, ứng xử giữa các thành viên trong cùng tổ chức XHDS hay giữa các tổ chức XHDS với nhau, hoặc giữa chính quyền và XHDS dần dần hình thành một thứ văn hóa, được gọi là “văn hóa công dân” (civic culture).  Trong nhiều quốc gia, khi XHDS chưa hình thành, chính quyền trung ương cũng như địa phương thường mời các nhà chính trị lão thành, các thân hào nhân sĩ – có khi còn đích thân đến– để vấn kế. Ngày nay, các nhà lập pháp, hành pháp, các viên chức hành chánh địa phương thường tham khảo ý kiến của các tổ chức XHDS.  Trong thập niên vừa qua, một số tổ chức quốc tế, chẳng hạn Ngân Hàng Quốc Tế, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, trước khi chấp thuận cho vay mượn, hay hoãn giảm nợ cho các địa phương, còn ra điều kiện là các con nợ –tức Nhà Nước hay Chánh quyền địa phương hay cơ quan chủ quản dự án phải tham khảo ý kiến của các tổ chức XHDS liên hệ.
Một quốc gia có “vốn liếng xã hội” phong phú, có một nền “văn hóa công dân” cao, thì không cần phải đợi đến khi có giặc đến mới mở “Hội Nghị Diên Hồng”!  Một khi chưa bồi đắp được lòng tin, chưa quen lề lối sinh hoạt dân chủ, cũng như chưa quen sống trong cái “văn hóa công dân” thì những người tham dự có thể sẽ ngỡ ngàng, sẽ chỉ là những người bù nhìn và “nhất trí ” đi theo cái hướng mà người tổ chức chỉ ra. Xin mở dấu ngoặc. Ở đây, người viết nghĩ rằng đảng Cộng Sản Việt Nam không những không tin, mà còn sợ hãi một hội nghị Diên Hồng –một đề nghị của một số “Việt kiều yêu nước” hải ngoại.  Bối cảnh lịch sử của Hội Nghị Diên Hồng đời nhà Trần là giặc Mông Cổ đang tràn qua biên giới trong khi vua quan nhà Trần cũng chưa rõ là các cựu thần nhà Lý và một bộ phận nhân dân còn tư tưởng “hoài Lý” hay không. Đảng Cộng Sản từ khi cầm quyền đến nay đã gây quá nhiều sai trái, cho nên họ sợ hãi một hội nghị Diên Hồng với đủ thành phần tham dự sẽ đưa đến hậu quả bất lợi thậm chí nguy hiểm cho họ, vì bối cảnh đã đổi mới: nhân dân đã bớt sợ hãi, và mạng lưới thông tin xã hội càng ngày càng phát triển mạnh, trong khi đó Hà Nội đang nhìn qua nhìn lại để hòng kiếm đồng minh đối phó với phương Bắc.
Dân chủ không thể nhập cảng, vì dân chủ của nước xuất cảng được sản xuất trước tiên cho chính dân họ dùng.  Dân chủ cũng không thể trông cậy từ trên ban xuống, vì ban xuống dễ, thì lấy đi sẽ không khó.  Nhưng dân chủ có thể học hỏi được qua xã hội dân sự.  Bóp nghẹt, kiềm hãm, ức chế XHDS là phủ nhận tri thức và tâm hồn của công dân. Nếu bị phủ nhận, người công dân buộc phải trông cậy vào sự tranh đấu của mình vậy.  Họ tranh đấu để trước hết có được quyền hội họp, quyền tự do ngôn luận.  Nghĩa là bắt đầu cho “Chương 1”!  Một sự bắt đầu như vậy sẽ vô cùng tốn kém: tài sản, của cải, xương máu, đẩy quốc gia vô phước đó lùi xa thêm về phía sau, và về sau lịch sử lại chê trách, than thở cho những năm tháng đã mất. 
Trong những quốc gia không có truyền thống dân chủ, khó khăn lắm mới lên nắm quyền hành, thì không ai lại muốn từ bỏ quyền hành, nhất là khi chưa bị chống đối mạnh mẽ và nguy hiểm cho mạng sống của mình và gia đình.  Các nhà cầm quyền độc đoán trên thế giới, đặc biệt là tại các quốc gia độc đảng, chẳng ai muốn tự buông quyền buông của.  Do đó họ luôn luôn sẵn sàng chủ trương tiêu diệt từ trong trứng nước mọi mầm móng đòi hỏi dân chủ. Những nhà hoạt động dân chủ, những nhóm bất đồng chính kiến, những người phản biện đều nhận thức rất rõ điều này.  Giữa thập niên 1940 ở Việt Nam, để huy động toàn dân đấu tranh giành độc lập trong tay người Pháp, Việt Minh hô hào: “Độc lập ai bán mà mua/ Ai cho mà nhận, ai thừa mà xin,” thì ngày nay “Dân chủ ai bán mà mua/ Ai cho mà nhận, ai thừa mà xin.” Những nhà tranh đấu của XHDS đã cho biết rõ lập trường của mình. Cuộc tranh đấu đã bắt đầu, và chắc chắn họ sẽ không bị lẻ loi như mấy năm trước đây.
Như chúng ta thừa hiểu: Xưa nay có hai trường phái về cải cách chính trị.  Một trường phái cho rằng những cải cách chính trị phải xuất phát từ tinh thần tôn trọng tự do ẩn sâu trong tâm hồn của những nhà lãnh đạo, và những thay đổi về các định chế sẽ xuất hiện sau.  Trường phái kia không tin tưởng cái ẩn chứa trong chiều sâu ấy, và cho rằng ngoại cảnh mới có sức mạnh ảnh hưởng và thay đổi các định chế, buộc lãnh đạo không còn cách lựa chọn nào khác hơn là phải ra đi.  Giữa 2 trường phái này, có một quan điểm lạc quan. Mặc dù tiến hành một xã hội tư do dân chủ từ trên xuống dưới là khó, nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được.  Trong thời đại toàn cầu và với sự lan rộng của mạng thông tin xã hội, thế giới chúng ta không còn là “thế giới T.I.N.A.” (There Is No Alternatives, không có giải pháp nào khác).
Hiện nay, trào lưu dân chủ với sự hồi sinh và phổ biến của xã hội dân sự cho thấy có thể tìm được một giải pháp trung dung cho các nước muốn có dân chủ mà không phải mất nhiều xương máu.  Đó là khi cả đôi bên, Nhà Nước và Xã Hội Dân Sự, đều không chủ trương một mất một còn.  Qua kinh nghiệm tương tác đôi bên sẽ cảm nhận và rút tỉa những bài học giá trị và bổ ích từ “sự thực chiến trường” (ground truth), chứ không phải là chỉ từ những hiểu biết qua các sách vở từ chương hay lý thuyết suông.  Nếu trong chiến tranh, “sự thực chiến trường” giúp cho người lính ngửi được mùi thuốc súng, nhận thức hiểm nguy sinh tử và hình thành tự tin và can đảm hơn, thì trong chính trị, “sự thực chiến trường” sẽ giúp đôi bên hiểu sức mạnh của nhau, giúp tương kính nhau và cùng nhau đối phó với kẻ thù chung, với nghèo đói, với bất công, với tham nhũng, với sự hủy hoại môi sinh vv.  hầu đưa đất nước mình đi lên, thậm chí còn có thể giúp ngăn chặn hay hạn chế khủng bố tại các quốc gia đã phát triển, như chính quyền các nước này trông cậy khi cung cấp ngoại viện.
Tại Việt Nam, thực tế không cho phép người ta mong đợi giải pháp trung dung lý tưởng nói trên. Một sự thực đáng mừng là xã hội dân sự đã manh nha, lớn dần và đang được sự ủng hộ của thế giới.  Tuy nhiên, khu vực xã hội dân sự tại Việt Nam phát triển tương đối chậm.  Lý do là vì Đảng và Nhà Nước không muốn nó có cơ hội phát triển, chỉ vì người Cộng Sản lo sợ rằng nếu xã hội dân sự phát triển, thì Đảng và Nhà Nước CS sẽ diệt vong. Trong tình huống đó, đấu tranh và xung đột giữa hai bên là điều khó tránh. Những người tiền phong trong phong trào xã hội dân sự, nếu sớm lôi cuốn được đông đảo quần chúng, được sự ủng hộ tích cực của người Việt hải ngoại, cũng như dư luận và sự giúp đỡ tận tình của thế giới, thì sẽ đem thắng lợi về phía mình, và đất nước sẽ có cơ hội vươn lên.  Đó là điều chúng ta mong đợi.
***
Để kết luận, người viết thấy có hai chủ trương khá rõ sau đây về XHDS: một đối với các quốc gia vốn đã có XHDS từ lâu, và một đối với các quốc gia mà XHDS còn non trẻ.
Đối với các quốc gia mà XHDS vốn có chiều dày lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu nhận thức hướng đi xuống của XHDS, cho nên cần phải có sự cứu vãn. Brian Connell lập lại nhận định của Gibbon: “Sau cùng, họ (người dân thành Athens, Hy Lạp Cổ) muốn an ninh, còn hơn là đã muốn tự do. Họ đã muốn đời sống thoải mái và họ đã mất hết –an ninh, thoải mái và tự do … Sau rốt, khi người dân thành Athens không muốn ban phát cho xã hội mà chỉ muốn xã hội ban phát cho mình, khi tự do mà họ mong muốn nhất là tự do khỏi trách nhiệm, thì khi đó thành Athenes không còn tự do nữa.” Connell khẩn thiết kêu gọi người dân Mỹ phải kịp thời củng cố và hoàn chỉnh XHDS, và có tinh thần trách nhiệm để còn vui hưởng dân chủ dài lâu.
Lời kêu gọi của Connell không những chỉ dành cho nước Mỹ mà còn hướng đến toàn thế giới.  Đối với các quốc gia mà XHDS chưa có chiều dày lịch sử, người viết nghĩ rằng vấn đề XHDS còn cấp thiết hơn.  Khi bàn về sự duyệt xét lại một bản thảo, nhà thơ Maggie Anderson viết: ”Năng lực duyệt xét là năng lực sáng tạo và thay đổi; mà năng lực sáng tạo và thay đổi này cũng là năng lực hủy diệt.” (The Poet’s Companion, Kim Addozino & Dorianne Laux, 1997).  Một thi sĩ có thể vứt bỏ đi bản thảo cũ, và viết lại một bài thơ với những hứng khởi mới –thường thì hay hơn. Nhiều quốc gia hiện nay –trong đó có Việt Nam — đang viết “Chương 2”, cũng có thể hủy bỏ hay tránh làm ra những cái xấu, sáng tạo những cái mới và thay đổi những cái hiện đang không còn hợp thời nữa. Tuy nhiên, các quốc gia đó chỉ có thể làm việc trọng đại này với sự có mặt càng ngày càng lan rộng, và sự đóng góp mới, tích cực và hữu hiệu của XHDS, bởi lẽ lãnh đạo đương thời với não trạng không còn bén nhạy nữa và thường thì chỉ biết quanh quẩn theo đường mòn mà đi –thậm chí nhiều lúc còn quay trở lại.  Chỉ vào lúc ấy, Nhà Nước và XHDS mới không ở trên một đấu trường, và có thể nói hai bên đang cùng trong một lớp học.
Lê Văn Bỉnh
Virginia, Tháng 12 Năm 2014
Một Số Tài Liệu Khác Đề Nghị Độc Giả Tham Khảo Thêm
-    Don E. Eberly, Editor, The Essential Civil Society Reader, Rowman & Littlefield 2000
-    Helmet Anheller, Civil Society: Measurement, Evalution, Policy, Routledge 2004
-    John A. Hall, Editor, Civil Society: Theory, History Comparison, Polity Press 1995
-   Jon Carson & Russel Fox, Editors The State of Nature in Comparative Political Thought, Lexington Books 2014
-    Jean Cohen & Andrew Arato, Civil Society and Political Theory, MIT Press 1995
-    Michael Edwards, Editor, The Oxford Handbook of Civil Society, Oxford 2013
-    Virginia Hodgkinson & Michael Foley, Editors, The Essential Society Reader, Univ. Press of New England 2003
Lời giới thiệu: Tác giả Lê văn Bỉnh, trước năm 1975: tốt nghiệp Cao học Kinh tế tài chính, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài gòn và MA, Economy tạiUniversity of Southern California.
Đã dạy học ở các Đại Học Kinh Thương, Cửu Long, Minh Trí (Saigon). Sang Hoa Kỳ 1990, Chủ Bút các báo của Cựu Sinh Viên QGHC: Hoài Bão Quê Hương (1999-2000), Hành Chánh Miền Đông (từ 2002 — nay).

This is the city … and I am one of the citizens;
Whatever interests the rest interest me …politics,
churches, newspapers, schools
Benovelent society, improvements, banks, tariff,
Steamships, factories, markets
Stock and stores and real estate and personal estate.
*Walt Whitman, Song of Myself, 1855
https://anhbasam.wordpress.com/2015/01/15/3294-xa-hoi-dan-su-dau-truong-hay-lop-hoc/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét