Đọc bài này tôi hơi nghi ngờ các kết luận rút ra. Tiếc là không được nhìn thấy mô hình thực nghiệm cũng như số liệu đưa vào tính toán. Có mấy vấn đề cơ bản cần trao đổi:
1. Để giải thích các kết quả từ mô hình (ví dụ cho rằng điều chỉnh tỷ giá hầu như không cải thiện được tình trạng nhập siêu), các tác giả đã sử dụng lại những lập luận tồn tại từ rất lâu như nền kinh tế vẫn bị lệ
thuộc quá nhiều vào nhóm hàng đầu vào nhập khẩu nên nhập khẩu không thể giảm; hay xuất khẩu không tăng như kỳ vọng được giải thích bởi phần
lớn hàng hóa xuất khẩu chính của Việt Nam đều sử dụng tỷ trọng các yếu
tố đầu vào nhập khẩu lớn; hay năng lực cạnh tranh công nghiệp của nền kinh tế và mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư... Đây là những lập luận không thuyết phục, nếu cứ như kết luận của các tác giả thì tình trạng nhập siêu sẽ ngày càng nặng nề và đưa đất nước đến phá sản. Các nghiên cứu trước đây của chúng tôi cho thấy có những thời điểm không nên phá giá (khi đất nước đang mất ổn định nghiêm trọng, môi trường quốc tế không thuận lợi và không thể thực hiện được những biện pháp hỗ trợ cần thiết khi thực hiện chính sách phá giá); nhưng xét lâu dài, trong hầu hết các trường hợp, khi phá giá đủ mạnh (ít nhất là 10, 20% trở lên) để phá giá tỷ giá danh nghĩa thực sự trở thành phá giá tỷ giá thực, thì chắc chắn cán cân thanh toán quốc tế sẽ được cải thiện. Đây cũng là kinh nghiệm của rất nhiều nước trên thế giới. Họ cũng là các nước đang phát triển nghèo giống ta, cũng phụ thuộc vào đầu vào nhập khẩu..., nhưng sau khi phá giá đủ mạnh, nền kinh tế sẽ lấy lại được tốc độ tăng trưởng và từ nhập siêu trở thành xuất siêu. Kinh nghiệm phá giá tại các nước Đông Á và Đông Nam Á trong khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997 là một ví dụ. Sau khi phá giá mạnh, hầu như tất cả các nước này đã tăng trưởng trở lại và trở thành nước xuất siêu. Việt Nam đã thực hiện phá giá rất mạnh năm 1988 (từ đó đến nay chưa có đợt phá giá nào lớn nữa), nhờ đó, cán cân xuất nhập khẩu được cải thiện rõ rệt và năm 1992 đã trở thành xuất siêu...
2. Viết những câu như "Tỷ giá tăng kéo theo giá trị nhập khẩu tăng, xuất khẩu giảm"... là phản khoa học kinh tế. Nếu quan hệ này được đưa vào mô hình thì là một mô hình sai. Lập luận này cũng giống như bảo giá tăng thì nhu cầu tăng. Thực ra tỷ giá chỉ là một nhân tố ảnh hưởng tới giá trị nhập khẩu; do đó nếu quan sát thấy tỷ giá tăng đồng thời cũng thấy giá trị nhập khẩu tăng thì cũng không thể kết luận tỷ giá tăng làm nhập khẩu tăng. Lý thuyết và thực tế đều khẳng định tỷ giá tăng sẽ làm nhập khẩu giảm. Tuy nhiên, cùng với tỷ giá tăng còn có những nhân tố khác làm nhập khẩu tăng và mức nhập khẩu tăng này cao hơn mức giảm nhờ tỷ giá; do đó tính chung, nhập khẩu sẽ tăng. Như vậy nhập khẩu tăng là do các nhân tố khác chứ không phải do tỷ giá. Nếu xây dựng mô hình trong đó có quan hệ dương giữa tỷ giá và nhập khẩu thì đó là mô hình sai, cần làm lại.
Nên luôn nhớ trong đầu: Mô hình là phản ảnh của một lý thuyết kinh tế cụ thể.
3. Về kỹ thuật, tỷ giá thực bao giờ cũng là một chỉ số với năm gốc là 100. Không hiểu sao trong đồ thị đầu tiên dưới đây, chúng ta thấy tỷ giá thực là một số tuyệt đối với gốc khoảng 14.000 đồng. Việc tính toán tỷ giá thực cũng khá công phu, tôi đã thử tính vài lần, ví dụ xem
ở đây. Trong bài dưới đây có nhiều đoạn khá thiếu lôgic hay mâu thuẫn làm tôi nghi ngờ cách tính tỷ giá thực cũng như mô hình sử dụng không hợp lý.
Dưới đây là bài báo đăng trên Gafin (http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/gafin.vn/%C4%90ieu-chinh-ty-gia-hau-nhu-khong-cai-thien-%C4%91uoc-tinh-trang-nhap-sieu/9255636.epi)
"Điều chỉnh tỷ giá hầu như không cải thiện được tình trạng nhập siêu"
Theo báo cáo của Ủy ban kinh tế, chính sách tiền tệ, tỷ giá sẽ ít có
vai trò trong nỗ lực giảm nhập siêu, mà lại lan truyền sang lạm phát.
Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 với tiêu đề “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường
tái cơ cấu” vừa được Ủy ban Kinh tế của Quốc hội công bố đề cập đến mối
quan hệ giữa tỷ giá và nhập siêu.