Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

(1) Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam

Bài viết cũ của tôi:
Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
MỞ ĐẦU
1) Tầm quan trọng của vấn đề tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ở nước ta trong quá trình phát triển:
Có lẽ chưa bao giờ vấn đề nâng cao tốc độ tăng trưởng, đặc biệt là nâng cao chất lượng tăng trưởng, lại được nói đến nhiều trong các diễn đàn trong nước và quốc tế như hiện nay. Không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách và điều hành, quản lý nền kinh tế, vấn đề này đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhất là giới khoa học kinh tế. Điều này cũng dễ hiểu vì với tư duy, nhận thức của nhân loại hiện nay về tầm quan trọng đặc biệt của chung sống hòa bình để cùng nhau phát triển, có thể thấy trong giai đoạn vừa qua cũng như dự báo trong những năm tới đây, xu hướng lớn, mang tính áp đảo của thế giới và khu vực quanh ta đã và sẽ tiếp tục là hoà bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển; nhờ đó, thế giới đang đi vào chu kỳ tăng trưởng mới với tốc độ và chất lượng cao hơn hẳn so với bất kỳ giai đoạn phát triển nào trước đây trong lịch sử. Mặt khác, trước hàng loạt vấn đề đặt ra về xã hội và môi trường trong thời đại ngày nay, người ta càng ngày càng thấy rõ mục tiêu tối thượng của phát triển kinh tế là chất lượng tăng trưởng chứ không phải là tốc độ tăng trưởng.
Đây không phải là quan điểm mới mà thực ra đã tồn tại từ lâu vì mục tiêu chủ yếu của mọi quá trình phát triển là chất lượng chứ không phải số lượng mặc dù số lượng cũng rất quan trọng; tuy nhiên, do đặc điểm lịch sử, có những lúc vấn đề chất lượng tăng trưởng chưa thực sự được quan tâm đúng mức.

Nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng cũng là vấn đề được Đảng, Chính phủ đặc biệt quan tâm, và đã được đề cập trong nhiều chủ trương, đường lối kinh tế của Đảng, cũng như trong các nghị quyết và các kỳ họp của Chính phủ. Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-2010, Đảng ta đã chỉ rõ phải “phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước. Tăng nhanh năng suất lao động và nâng cao chất lượng tăng trưởng”[1]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng năm 2006 cũng chỉ rõ phải “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”.

Về tốc độ tăng trưởng, nhìn vào kết quả mấy năm gần đây, có thể thấy tốc độ tăng trưởng đang có xu hướng cao dần, đồng thời nước ta đã đứng vào hàng ngũ các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất trong khu vực và trên thế giới.

Tuy vậy, nếu so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội IX và X của Đảng đề ra cho các thời kỳ 2001-2005 và 2006-2010 (7,5-8%, phấn đấu cao hơn 8%), thì tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đã đạt được vẫn chưa cao. Đặc biệt, nếu so với môi trường phát triển hết sức thuận lợi trong suốt thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX và với tiềm năng to lớn của đất nước thì tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được trong những năm vừa qua vẫn còn rất khiêm tốn.

Do vậy, thu nhập (GDP) bình quân đầu người của nước ta đến nay vẫn rất thấp. Theo Niên giám thống kê 2007 của Tổng cục Thống kê, GDP bình quân đầu người năm 2006 của Việt Nam theo tỷ giá bình quân là 723 USD[2], trong khi của Trung Quốc là 2.016 USD, Singapore 29.474 USD, Brunây 30.270 USD, Malaixia 5.770 USD, Thái Lan 3.252 USD, Indonexia 1.636 USD, Philippin 1.363 USD, Lào 597 USD, Campuchia 511 USD và Mianma 199 USD (năm 2005).

Nếu tính theo tỷ giá sức mua tương đương, GDP bình quân đầu người năm 2006 của Việt Nam theo tỷ giá bình quân là 3.112 USD, trong khi của Trung Quốc là 6.757 USD, Singapore 29.663 USD, Brunây 28.161 USD, Malaixia 10.882 USD, Thái Lan 8.677 USD, Indonexia 3.843 USD, Philippin 5.137 USD, Lào 2.039 USD, Campuchia 2.727 USD và Mianma 1.027 USD (năm 2005).

Tính chung, xét theo chỉ tiêu thu nhập (GDP) bình quân đầu người tính theo tỷ giá sức mua tương đương, năm 2006 nước ta chỉ đứng ở vị trí thứ 7 trong số 10 quốc gia khu vực Đông-Nam Á, đứng thứ 43 trong số 55 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á và thứ 122 trong số 175 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Do ở trình độ thấp như vậy nên theo lý thuyết đuổi bắt, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta có thể và cần phải cao hơn nữa[3].

Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu đến năm 2010, phải đưa GDP bình quân đầu người vượt qua ngưỡng của nước có thu nhập thấp (ngưỡng này được Ngân hàng Thế giới xác định cho năm 2005 là 875 USD); tức là tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trong giai đoạn 2006-2010 phải đạt từ 7,5-8%. Trên thực tế, Chính phủ đã đặt ra mức phấn đấu cao hơn để có thể đạt được mục tiêu trước năm 2010. Với thành tựu tăng trưởng lần lượt là 8,2% và 8,5% trong 2 năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010, dự báo nước ta sẽ thoát khỏi danh sách các nước có thu nhập thấp vào năm 2009, khi đó, thu nhập bình quân đầu người của nước ta sẽ đạt khoảng 1100 USD trong khi ngưỡng thoát nghèo của Ngân hàng Thế giới sẽ khoảng 1000 USD vào năm đó.

Mặc dù vậy, nhìn xa hơn đến năm 2020 với mục tiêu “phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra và được các Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X tái khẳng định, thì những thành tựu trong 10 năm 2001-2010 vẫn còn rất khiêm tốn, vì để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong suốt thập kỷ thứ 2 của thế kỷ XXI phải liên tục trên 10%/năm. Đây là một thách thức hết sức to lớn vì trong suốt lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam, nước ta chưa bao giờ đạt được tốc độ tăng trưởng hai chữ số.

 Về chất lượng tăng trưởng, tất cả các báo cáo nghiên cứu và phân tích kinh tế của cơ quan nhà nước lẫn các nhà nghiên cứu độc lập trong và ngoài nước, theo nhiều phương thức tiếp cận khác nhau, đều khẳng định chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta đến nay vẫn chưa cao, thực chất là thấp dưới mức trung bình của thế giới; đồng thời tốc độ cải thiện còn chậm so với yêu cầu.

Các yếu kém về chất lượng tăng trưởng tập trung vào 6 nhóm vấn đề: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều và chưa phát huy thế mạnh trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm. Tốc độ tăng trưởng khá của nhiều loại sản phẩm, nhiều ngành kinh tế trong cả nước thời gian qua có được một phần quan trọng là do đang được bảo hộ trong khi với quá trình hội nhập sâu và toàn diện, hàng sản xuất trong nước đang đứng trước sự cạnh tranh ngày một gay gắt hơn với hàng ngoại nhập. Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Một số cân đối vĩ mô chưa vững chắc, nguồn lực đất nước huy động chưa cao và sử dụng chưa thật hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế; môi trường thu hút đầu tư nước ngoài chưa thực sự hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Cơ chế, chính sách về văn hoá, xã hội chậm được cụ thể hoá, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được khắc phục và đẩy lùi. Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính được thực hiện chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới.

Mặt khác, đang có rất nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến chất lượng tăng trưởng để đảm bảo quá trình phát triển bền vững, đảm bảo an sinh xã hội. Thực tế cho thấy mặc dù nền kinh tế phát triển khá nhanh song người dân đang phải đối mặt với một cuộc sống kém chất lượng, có chiều hướng đi xuống như tiền lương và thu nhập thực tế của công nhân, nông dân quá thấp, không đủ trang trải những nhu cầu tối thiểu, ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề, giao thông ùn tắc nghiêm trọng tại nhiều thành phố lớn, tai nạn giao thông không giảm trong khi chi phí bỏ ra cho công tác an toàn giao thông rất tốn kém; chênh lệch giầu nghèo ngày một tăng; tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số cao gấp 4 lần tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước; nhiều bức xúc khác kéo dài từ nhiều năm nhưng đến nay vẫn chưa được tháo gỡ như công tác đền bù giải phóng mặt bằng, quản lý nhà đất hết sức phức tạp, chậm trễ, gây quá nhiều phiền hà cho người dân; công tác cải cách hành chính, trong tâm là cải cách thủ tục hành chính, được nói quá nhiều và được thực hiện từ hàng chục năm nay song kết quả còn rất khiêm tốn, còn xa mới đáp ứng được mong đợi của người dân; khiếu kiện đông người và kéo dài có xu hướng tăng lên; thu nhập tăng lên nhưng những bất cập trong công tác giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ... vẫn rất lớn và dường như không có chuyển biến đáng kể. Ngoài ra, phải kể đến nhiều yếu kém trong nền kinh tế như các cân đối vĩ mô chưa vững chắc, tỷ lệ lạm phát vẫn vào loại cao, nhập siêu ngày càng tăng... Tất cả những hiện tượng trên phản ánh quá trình tăng trưởng kinh tế của nước ta chưa thực sự bền vững và hiệu quả.

Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận trong những năm gần đây, chất lượng tăng trưởng đã có những cải thiện nhất định, thể hiện ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường đều đạt được những thành tựu quan trọng. Trên thực tế, để đạt được những thành tựu này thì chất lượng tăng trưởng phải có những tiến bộ nhất định.

Mặt khác, trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn do hạn hán, lũ lụt, bão, dịch cúm gia cầm, thiếu điện và giá cả nhiều loại vật tư, nhiên liệu trên thị trường thế giới tăng cao, tốc độ tăng trưởng GDP trong những năm gần đây vẫn liên tục tăng lên và thuộc loại cao nhất ở châu Á và trên thế giới. Đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng trưởng kinh tế rất rõ, trước hết là trong sản xuất nông nghiệp; vai trò của nhân tố năng suất tổng hợp (phản ánh sự phát triển kinh tế theo chiều sâu) tăng lên; nhờ đó, năng suất lao động của các ngành đều tăng nhanh. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực; quá trình chuyển dịch cơ cấu đã ngày càng gắn liền với đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tăng cường các quan hệ hợp tác kinh tế và tính chuyên môn hoá, chuyển đổi cơ cấu lao động... làm cho chất lượng nhiều loại sản phẩm được nâng lên, làm tăng khả năng cạnh tranh, do đó đã tiêu thụ thuận lợi hơn so với những năm trước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cũng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Để đạt được tốc độ tăng trưởng này, chất lượng nhiều loại hàng xuất khẩu và chất lượng công tác khuyến khích xuất khẩu đã được nâng lên một bước để hàng hoá xuất khẩu nước ta tiếp tục duy trì và nâng cao sức cạnh tranh trong thị trường quốc tế ngày càng cạnh tranh khốc liệt.

Bên cạnh đó, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao song chúng ta vẫn duy trì khá tốt ổn định kinh tế vĩ mô, thể hiện ở các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân liên tục được duy trì trong tầm kiểm soát và trong phạm vi giới hạn theo kinh nghiệm thế giới. Chất lượng tăng trưởng xét theo tiêu chuẩn năng lực cạnh tranh cấp quốc gia, cấp doanh nghiệp và cấp sản phẩm cũng có những tiến bộ đáng kể dù còn ở mức trung bình thấp so với thế giới. Do vậy, Diễn đàn kinh tế thế giới đã liên tục nâng thứ hạng của nền kinh tế nước ta. Các công ty định giá tín nhiệm quốc tế đều nâng chỉ số triển vọng kinh tế dài hạn của nước ta từ mức "ổn định" lên mức "tích cực".

Ngoài ra, chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta cũng tăng lên đáng kể thể hiện ở sự phát triển mạnh mẽ của khu vực doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn đầu tư trong những năm gần đây đã hợp lý hơn. Đáng nhấn mạnh là tăng trưởng tiếp tục đi kèm với phát triển xã hội, đặc biệt là y tế và xoá đói giảm nghèo, được thế giới đánh giá cao.

Như vậy, cũng như với vấn đề tăng trưởng, nếu nhìn xa hơn đến năm 2020 với mục tiêu “phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” thì những thành tựu trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng trong giai đoạn vừa qua vẫn còn rất thấp, vì để đảm bảo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong suốt thập kỷ thứ 2 của thế kỷ XXI phải liên tục trên 10%/năm, đồng thời cải thiện rõ rệt chất lượng cuộc sống, chất lượng môi trường cho người dân thì chất lượng lượng tăng trưởng phải có bước tiến hết sức mạnh mẽ mới đáp ứng yêu cầu. Đơn cử, về phương diện tăng trưởng kinh tế, nếu không nâng cao được chất lượng đầu tư, thì với hệ số ICOR khoảng 4,7 như giai đoạn hiện nay, để tăng trưởng GDP trên 10%, tỷ lệ đầu tư trên GDP phải trên 47%, đây là một tỷ lệ cao cực kỳ hiếm có trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới; do đó sẽ khó khả thi. Tuy vậy, nếu chất lượng đầu tư tăng lên 20%, hệ số ICOR giảm chỉ còn 3,76; thì tỷ lệ đầu tư trên GDP chỉ cần đạt 37,6% là có thể đạt được tốc độ tăng trưởng GDP 10%; đây là một con số khả thi và hoàn toàn nằm trong tầm tay của nhân dân ta. Trong trường hợp này, thậm chí chúng ta có thể đạt được tốc độ tăng trưởng GDP trên 10% vì tỷ lệ đầu tư có thể đạt 40% trong suốt 10 năm 2011-2020...

Chính vì những lý do trên, trong những năm gần đây, vấn đề đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đang được đặt ra một cách cấp thiết để vừa sớm thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân và đưa đất nước vững chắc đạt mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, vừa đáp ứng yêu cầu gay gắt của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, tại tất cả các kỳ họp Quốc hội gần đây, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đều được các vị đại biểu Quốc hội chất vấn về vấn đề này. Tại các kỳ họp Quốc hội gần đây, Thủ tướng Chính phủ liên tục nhấn mạnh trong những năm tới, cần phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, tăng trưởng cao phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Như vậy, vấn đề tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng đang được đặt ra một cách cấp thiết.

2. Nội dung nghiên cứu của đề tài:

Trong khi vấn đề tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng đang được đặt ra một cách cấp thiết thì đến nay ở nước ta, số nghiên cứu về đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế còn rất ít. Trong nước, việc nghiên cứu về đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đến nay mới được bắt đầu. Đa số các kết quả công bố đều mang tính tổng hợp các tài liệu nước ngoài về tốc độ và chất lượng tăng trưởng, chưa có nghiên cứu ứng dụng cụ thể vào điều kiện Việt Nam. Mặt khác, các nghiên cứu mới đề cập đến mặt tốc độ tăng trưởng, ít chú ý đến chất lượng tăng trưởng; nghiên cứu chủ yếu dựa trên các phân tích định tính, trong khi các thông tin rút ra từ các nghiên cứu dựa trên các công cụ phân tích định lượng hầu như chưa có hoặc còn chưa rõ ràng.

Đáng chú ý là phần lớn các nghiên cứu đều chỉ nhìn một hoặc một vài khía cạnh của chất lượng tăng trưởng, chưa có nghiên cứu tổng hợp. Ví dụ phân tích từng mặt riêng lẻ, gồm: cơ cấu kinh tế, năng suất và sức cạnh tranh, xóa đói giảm nghèo, tăng trưởng và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, nhân tố năng suất nhân tố tổng hợp TFP có vai trò rất quan trọng trong phân tích chất lượng tăng trưởng nói chung, hệ số ICOR có vai trò rất quan trọng trong phân tích chất lượng đầu tư phát triển nói riêng... đều chưa được nghiên cứu rõ. Ngoài ra, cũng chưa thấy nghiên cứu nào đặt vấn đề dự báo khả năng tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trên cơ sở những phân tích về tốc độ và chất lượng tăng trưởng nêu trên.

Ngoài nước, việc nghiên cứu tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng đã được thế giới nghiên cứu từ rất lâu. Đặc biệt, trong hai thập kỷ gần đây, vấn đề nâng cao chất lượng tăng trưởng lại càng được quan tâm nghiên cứu hơn vì mặc dù nền kinh tế thế giới đã có những bước phát triển lớn lao, nhất là đối với các nước đang phát triển xung quanh nước ta, nhưng tình trạng suy thoái, thậm chí khủng hoảng kinh tế vẫn diễn ra; gần đây thế giới đã liên tục phải đối phó với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế xuất phát từ những nền kinh tế tăng trưởng quá nóng, tình trạng bất công trong xã hội ngày càng tăng, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng do hậu quả của quá trình công nghiệp hoá... Những thay đổi bất thường này cho thấy trung tâm của phát triển hiện nay không chỉ là tăng trưởng kinh tế cao mà quan trọng hơn là phải đảm bảo tăng trưởng có chất lượng.

Đến nay, phương pháp và công cụ nâng cao chất lượng tăng trưởng đã được thế giới hoàn thiện đáng kể; nhờ đó đã hạn chế, kiểm soát được nhiều mất cân đối kinh tế vĩ mô toàn cầu, duy trì được môi trường sản xuất, kinh doanh ổn định, nâng cao được tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu, từng bước giảm bất công xã hội và bắt đầu chặn được đà suy giảm chất lượng môi trường... trong những năm đầu thế kỷ XXI. Đây là thuận lợi rất lớn để nghiên cứu, ứng dụng vào trường hợp nước ta.

Trong bối cảnh trên, việc triển khai đề tài phân tích thực trạng và dự báo khả năng tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2015 là rất cần thiết và có ý nghĩa rất thiết thực. Sự phát triển mạnh mẽ của các nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới cũng tạo thuận lợi để đề tài thu được những kết quả mong đợi.

Xuất phát từ đặc điểm, nhu cầu của nền kinh tế nước ta, đồng thời từ những hạn chế hiện nay trong việc phân tích thực trạng và dự báo khả năng tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta, đề tài này sẽ có phạm vi nghiên cứu khá rộng để tạo tiền đề cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn trong giai đoạn tiếp theo, với mục tiêu cụ thể hơn là kết hợp phân tích định tính với các phân tích định lượng để làm rõ thực trạng cả về tăng trưởng lẫn chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta.

Mục tiêu của đề tài là phân tích, làm rõ thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới (1986-2007), nhất là trong những năm gần đây (2001-2007), và dự báo khả năng tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, đề tài cũng sẽ khuyến nghị một số cơ chế, chính sách cho phép đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng đi kèm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh nước ta đã bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện hiện nay.

Nội dung chính của đề tài là sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, kết hợp phân tích định tính với định lượng thông qua sử dụng một số mô hình kinh tế, đặc biệt là mô hình kinh tế lượng, để đưa ra các phân tích, đánh giá và dự báo về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta.

Kết quả chủ yếu của bao gồm 5 sản phẩm chính được đề cập tại báo cáo này là: (1) Xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận về nghiên cứu thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng; (2) Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng, trên cơ sở đó nghiên cứu kinh nghiệm của các nước Đông Nam á và Trung Quốc; (3) Phân tích, làm rõ thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới, nhất là trong 7 năm gần đây; (4) Dự báo khả năng tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian tới (2008-2010, tầm nhìn đến năm 2015); (5) Khuyến nghị một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng đi kèm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Phương pháp luận tổng quát để xử lý các nội dung trong đề tài là lý thuyết hệ thống, tức là phân tích, đánh giá và dự báo tiến triển của tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước dựa trên quan điểm hệ thống, trong đó những chỉ tiêu chủ yếu của nền kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, tạo ra quá trình tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Cụ thể, với cách nhìn các chỉ tiêu tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng trong mối quan hệ tổng thể với các chỉ tiêu liên quan như vốn, hiệu quả đồng vốn, lao động, năng suất lao động, trình độ công nghệ và quản lý, giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên môi trường…, nhóm nghiên cứu đề tài sẽ kết hợp phân tích định tính với phân tích định lượng thông qua các mô hình để đưa ra các phân tích, đánh giá và dự báo.

Mô hình tăng trưởng tân cổ điển sẽ được sử dụng làm công cụ chính để phân tích tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta vì những phân tích tình hình kinh tế nước ta trong 2 thập kỷ gần đây cho thấy các nhân tố tăng trưởng trung hạn của nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu là các nhân tố cung, tức là đầu vào vẫn là nhân tố chủ yếu quyết định kết quả sản xuất chứ không phải là đầu ra. Tình hình này rất rõ ràng trước khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 vì khi đó thị trường trong và ngoài nước đều được mở ra rất mạnh; khan hiếm hàng tiêu dùng và các nguồn lực trở thành hiện tượng phổ biến khắp nơi, làm cho cơ chế bao cấp xin -  cho vẫn là nguyên tắc chi phối toàn bộ cơ chế vận động của nền kinh tế nước ta, đồng thời làm cho nền kinh tế nước ta hoạt động có thể nói là gần như hết công suất.

Trong giai đoạn từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đến nay, nền kinh tế có lúc (1999-2000) đã rơi vào tình trạng thiểu phát và cung lớn hơn cầu, với tình trạng dư thừa hàng hoá, dư thừa vốn và tiền tệ phát triển tràn lan, kéo theo giá hàng tiêu dùng và lãi suất giảm gần như liên tục qua các tháng. Tuy nhiên, tình trạng trên chỉ kéo dài trong giai đoạn rất ngắn. Từ năm 2001 đến nay, tình trạng mất cân đối cung cầu trong đó cung không đáp ứng được cầu đã diễn ra triền miên với biểu hiện cụ thể là nhập siêu không ngừng tăng nhanh và tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng ngày càng cao.

Do vậy, nếu phân tích sâu hơn, có thể thấy, về trung hạn, các nhân tố cung vẫn đóng vai trò cơ bản. Điều này càng rõ vì trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của nền kinh tế nước ta trong 2 thập kỷ qua, việc tăng trưởng nhanh hoặc chậm của nền kinh tế đều phụ thuộc rất lớn vào vốn đầu tư. Ngay trong những năm nền kinh tế tăng trưởng chậm lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, thì một trong những nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu vốn đầu tư, trong đó có vấn đề nguồn vốn FDI giảm nghiêm trọng...

Đặc biệt, nếu nghiên cứu cho giai đoạn 2006-2010 khi nước ta trở thành thành viên đầy đủ của nhiều tổ chức kinh tế, thương mại và tài chính quốc tế, nhất là từ năm 2006 đã trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), được Hoa Kỳ trao quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn... thì thị trường của nước ta sẽ rất rộng lớn. Khi đó, vấn đề cơ bản sẽ là sức cạnh tranh của các sản phẩm của nền kinh tế nước ta trên thị trường quốc tế, mà điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào trình độ lao động, trình độ công nghệ và nguồn vốn đầu tư, tức là những nhân tố cung. Chính vì vậy, mô hình xây dựng để phân tích, dự báo tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta cho giai đoạn từ nay đến năm 2015 sẽ cơ bản là mô hình cung.

Vì cơ bản là mô hình cung và nền kinh tế nước ta mới trong giai đoạn đầu phát triển (giống như trường hợp các nước công nghiệp vào thế kỷ 19 với môi trường thương mại thế giới hoàn toàn tự do) nên lô gic của mô hình phỏng được theo lý thuyết tân cổ điển (lý thuyết cung hiện đại), trước hết là mô hình Harrod - Domar. Mặc dù mô hình Harrod-Domar có một bước tiến mạnh mẽ so với mô hình cổ điển, nhưng nó vẫn còn một yếu điểm quan trọng là về dài hạn, cân bằng trong tăng trưởng kinh tế kém bền vững do những điều kiện giả định của nó quá chặt (ví dụ tỷ lệ giữa các nhân tố sản xuất như vốn và lao động... không đổi; tỷ lệ tiết kiệm và hệ số vốn - sản phẩm cố định nếu muốn duy trì tình trạng tăng trưởng bền vững; mức giá cả và lãi suất cũng không đổi theo thời gian...); nếu các tham số cơ bản trong mô hình thay đổi thì tốc độ tăng trưởng thực tế sẽ chệch xa khỏi tốc độ tăng trưởng tiềm năng, và quá trình tăng trưởng dài hạn, bền vững có nguy cơ không đạt.

Mặt khác, do trình độ phát triển kinh tế thế giới ngày càng cao, xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh, nên độ phức tạp của các mối quan hệ tăng lên. Vì vậy các phát triển gần đây của lý thuyết tân cổ điển chủ yếu là tăng thêm số biến tham gia giải thích quá trình tăng trưởng và công nghiệp hoá, cũng như tăng thêm số biến giải thích nguồn gốc của tiết kiệm và đầu tư. Ngoài ra, cũng do độ phức tạp ngày càng cao, những phát triển gần đây cho thấy phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa lập luận lý thuyết và kiểm nghiệm thực tế thông qua ước lượng các phương trình cụ thể với các số liệu thống kê.

Trong khoảng hai thập kỷ gần đây, quan điểm cơ bản của lý thuyết tân cổ điển là mô tả quá trình sản xuất bằng các hàm sản xuất gộp, bao gồm nhiều nhân tố giải thích không chỉ duy nhất có nhân tố vốn vật chất. Sự gia tăng của bất kỳ nhân tố nào cũng đều kéo theo sự tăng thêm của sản xuất phù hợp với năng suất cận biên của nhân tố đó.

Đồng thời với những nhà kinh tế tân cổ điển, những nhà kinh tế hậu Keynes (tân Keynes) đã phân tích quá trình tăng trưởng với cách nhìn rộng hơn Keynes để kết hợp các nhân tố cung với các nhân tố cầu trong mô hình tăng trưởng hiện đại. Theo các nhà kinh tế hậu Keynes thuộc trường phái cơ cấu, tăng trưởng kinh tế là một quá trình biến đổi cơ cấu sản xuất cần thiết để phù hợp với thay đổi của cầu và trình độ sử dụng công nghệ cao hơn. Do tính không hoàn hảo của thị trường và khả năng di chuyển vốn bị hạn chế, quá trình dịch chuyển cơ cấu trên thường diễn ra trong điều kiện phi cân bằng. Từ đặc điểm này, việc mô hình hoá lý thuyết tăng trưởng của trưởng phái này không rõ ràng như cách mô hình hoá của lý thuyết cân bằng tổng quát. Mặt khác, trái với quan điểm tân cổ điển, tiếp cận cơ cấu không giả định có sự phân bố hoàn toàn tối ưu các nguồn lực vì cho rằng nhiều điều kiện không được thoả mãn để quá trình này có thể thực hiện được, nhất là hệ thống kinh tế không đủ mềm dẻo để duy trì hệ thống giá luôn luôn cân bằng.

Hirschman là một trong những đại diện tiêu biểu của lý thuyết cơ cấu, và cũng là đại diện tiêu biểu của thuyết tăng trưởng phi cân bằng (unbalanced growth), một nhánh của thuyết cơ cấu. Theo ông, vốn không phải là nhân tố duy nhất tạo ra quá trình tăng trưởng mà có thể khai thác những mối quan hệ bên trong và vào ra của quá trình sản xuất để tạo ra tăng trưởng. Khác với các nhà kinh tế theo thuyết tân Keynes, ông và những nhà kinh tế thuộc trường phái này đi theo tiếp cận cơ cấu để giải quyết bài toán tăng trưởng. Các nhà kinh tế thuộc trường phái cơ cấu cố gắng nhận dạng những điểm trì trệ (rigidities) đặc biệt, những điểm trễ, những lĩnh vực thiếu hụt và dư thừa, độ co dãn thấp của cung và cầu và những đặc thù khác về mặt cơ cấu của các nước đang phát triển có ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế để xây dựng các chính sách tác động vào đó nhằm giảm những lệch lạc, méo mó và tháo gỡ điểm thắt nút, mở đường cho tăng trưởng. Khác với trường phái tân cổ điển coi kinh tế thị trường luôn luôn mềm dẻo và sự luân chuyển giữa các yếu tố diễn ra thông suốt, quan điểm cơ cấu nhấn mạnh độ co giãn thấp của cung và tính không hoàn hảo của thị trường, do đó hạn chế khả năng huy động các nhân tố tăng trưởng.

Các giả thuyết cơ bản của tiếp cận cơ cấu là: (i) Thay đổi cầu nội địa có liên quan chặt với thu nhập trong khi thu nhập phụ thuộc trực tiếp vào sản xuất; (ii) Thị trường bên ngoài bị ràng buộc và có thời gian trễ trong điều chỉnh; (iii) Dịch chuyển cơ cấu sản xuất tạo ra phi cân bằng trên các thị trường nhân tố.

Từ các giả thuyết này, các nhà kinh tế hậu Keynes cho rằng các nhân tố xác định tăng trưởng dài hạn bao gồm các nhân tố như của thuyết tân cổ điển và những nhân tố về cơ cấu như phân bố lại các nguồn lực từ khu vực năng suất thấp sang khu vực năng suất cao, vai trò quan trọng của kinh tế quy mô và kiến thức kỹ năng, và giảm các trở ngại, khâu hẹp bên trong và ngoài. Giải thích cơ bản của thuyết này dựa trên mô hình tăng trưởng phi cân bằng.

Căn cứ vào lập luận của các lý thuyết trên và dựa theo kinh nghiệm xây dựng các mô hình kinh tế lượng của các nước khác, trong mô hình thực nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam, chúng tôi sẽ kết hợp sử dụng các nguyên tắc của mô hình cung với những phát triển tiếp theo lý thuyết tân cổ điển có bổ sung một số nhân tố cầu của thuyết cơ cấu.

Để đơn giản quá trình tính toán, các phương trình của mô hình đều được ước lượng theo phương pháp bình phương cực tiểu. Thực tế, các kết quả ước lượng theo phương pháp này nói chung đều đạt yêu cầu về kỹ thuật kinh tế lượng trong khi một số thử nghiệm ước lượng lại bằng phương pháp bình phương cực tiểu hai bước đều không tạo ra những thay đổi đáng kể về các hệ số ước lượng từ phương pháp bình phương cực tiểu.

Mặt khác, hầu hết các phương trình trong mô hình đều là các hàm logarit hoặc hàm quan hệ tỷ lệ (ví dụ tỷ lệ lạm phát phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng GDP...) trong khi các biến thuộc loại này thường thoả mãn tiêu chuẩn dừng, tức là có thể mô hình hoá trực tiếp bằng phương pháp bình phương cực tiểu.

Báo cáo này chỉ giới thiệu những kết quả cơ bản nhất, được rút ra từ mô hình gốc, các kết quả khác phục vụ nhiều mục tiêu phân tích, dự báo khác nhau được lưu tại ban chủ nhiệm đề tài. Các số liệu để xây dựng mô hình chủ yếu được lấy từ các Niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục thống kê, từ nguồn số liệu của một số Bộ, ngành, trước hết là từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân), từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và từ một số tổ chức tài chính quốc tế.

Cơ cấu của báo cáo này được bố trí như sau: Chương 1 của đề tài sẽ được dùng để tổng hợp các lý thuyết về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng trên thế giới. Chương 2 của đề tài sẽ xây dựng cơ sở phương pháp luận về nghiên cứu vấn đề tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng để áp dụng trong phân tích, dự báo đối với nền kinh tế nước ta, đồng thời cũng nghiên cứu kinh nghiệm của các nước về vấn đề này. Với cách tiếp cận này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn bản chất tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh chung của thế giới. Đây là cơ sở và nền tảng để thiết kế mô hình dự báo vì thông qua những phân tích trên, sẽ nhận dạng được những đặc trưng và quan hệ nhân quả cơ bản của nền kinh tế, do đó có thể thực hiện được quá trình mô hình hoá nền kinh tế.

Trong chương tiếp theo (chương 3), đề tài sẽ phân tích cụ thể thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong 20 năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là 7 năm gần đây (2001-2007). Nghiên cứu trong chương này cũng gồm các phân tích định tính kết hợp với định lượng để chỉ ra các nhân tố cơ bản tác động tới tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong 20 năm đổi mới.

Chương 4 của báo cáo sẽ được dành để phân tích, xây dựng mô hình, từ đó dự báo một số khả năng tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn từ nay đến năm 2015.

Trong phần kết luận, sẽ khuyến nghị một số giải pháp nâng cao tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong thời gian tới. Ngoài ra, đề tài cũng tổ chức được một cơ sở dữ liệu quy mô nhỏ cài đặt trên máy tính gồm các số liệu về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô liên quan đến đầu tư, tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1986-2007; đồng thời thông qua các nghiên cứu, cũng đã nâng cao kiến thức phân tích, đánh giá về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế, nâng cao nhận thức của các cấp quản lý về vai trò của vấn đề nghiên cứu chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và vai trò của các công cụ định lượng trong công tác hoạch định chính sách phát triển của các cán bộ tham gia đề tài.

Cuối cùng, để kết thúc phần mở đầu, những người tham gia thực hiện bày tỏ sự biến ơn đối với nhiều đơn vị và cá nhân đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình nghiên cứu, hoàn chỉnh đề tài. Các anh chị có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Viện Chiến lược phát triển, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Trường đại học ngoại thương, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại cũng có những đóng góp, cung cấp thông tin, bài viết liên quan và động viên quan trọng. Đặc biệt, chúng tôi trân trọng cám ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu của các Vụ thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Vụ thuộc Tổng cục Thống kê, các đơn vị thuộc Hội phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia... mà thiếu những giúp đỡ quý báu này, chúng tôi không thể có được những thông tin số liệu cần thiết để hoàn thành đề tài. Do khuôn khổ trang blog, chúng tôi không liệt kê danh mục tài liệu tham khảo.

Tuy nhiên, do đây là lần đầu tiên triển khai một nghiên cứu có tính chất thử nghiêm về chất lượng tăng trưởng dựa trên công cụ mô hình hóa nhằm mục tiêu phân tích và dự báo trung hạn nên những thiếu sót của đề tài là khó tránh khỏi. Tất cả những thiếu sót của đề tài và trách nhiệm về những kết quả nêu trong báo cáo này đều thuộc về chúng tôi, những người tham gia thực hiện.




[1] Đảng Cng sn Vit Nam, Văn kin đại hi đại biu toàn quc ln th IX, nhà xut bn Chính tr quc gia, Hà Ni, 2001, trang 162.
[2] Năm 2008 đạt khong 950 USD
[3] Lý thuyết này cho rng các nước đi sau nh tiếp thu thành tu, kinh nghim ca nhng nước đi trước nên có th và thường phát trin vi tc độ nhanh hơn so vi các nước đi trước,




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét