Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Ngó từ quán nhậu bờ kè

Ngó từ quán nhậu bờ kè
Hồi mới về Sài Gòn nhà tôi ở gần sân bay Tân Sơn Nhất. Hàng ngày, tôi vẫn đi về qua cây cầu Công Lý nổi tiếng. Hàng ngày, tôi cũng nhìn thấy những dãy nhà lụp xụp kéo dài khuất tầm mắt, lan từ ven kênh đến sát phía sau những biệt thự cao ốc sang trọng là mặt tiền của con đường rực rỡ đèn màu cửa kính… Rồi cứ đi dọc ven kênh sẽ qua nhiều con đường khác: Hai Bà Trưng với cầu Kiệu, Trương Minh Giảng (sau này là Nguyễn Văn Trỗi) với cầu cùng tên…

Một góc kênh Nhiêu Lộc, mỗi sáng khi nước rút. Nguồn: Nguyễn Ngọc Hải.
Xóm ven kênh hình như không bao giờ thấy bình minh, ban ngày ánh sáng vẫn nhờ nhờ. Còn khi chiều đến, bóng tối, không thèm đợi hoàng hôn, sụp xuống rất nhanh.

Dòng nước đen đậm đặc mùi xú uế lưu cữu hàng chục năm làm cho bất cứ ai mới bước chân đến đây đều có thể “chết” vì ngạt thở. Nhưng người sống ở đó thì dường như chịu đựng quen đến mức không biết là có nơi khác không khí dễ thở hơn…

Ngày nắng, mái tôn vách ván phơi mình cong vênh ngày mưa dãy cọc nhà sàn liêu xiêu chìm trong nước… Bờ kênh tràn rác, muỗi dày đặc, chuột chạy như chốn không người…

Đó là hình ảnh nơi cư ngụ của hàng ngàn gia đình, trôi dạt về đây sinh sống từ bao nhiêu nơi, trong bao nhiêu năm qua. Sài Gòn – Chợ Lớn không thiếu những dòng kênh đen và những xóm ven kênh như vậy.
Hình ảnh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã như thế trong mắt tôi ngót nghét ba thập kỷ, cho tới khi xảy ra một sự kiện quan trọng vào năm 2003.

Trước tình trạng ô nhiễm nặng của kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, tuyến kênh dài hơn 13 cây số, chính quyền thành phố đã quyết định đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để thực hiện việc cải tạo, nâng cấp với mong muốn thành phố sẽ có một dòng kênh xanh-sạch-đẹp.

Dự án Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè, sau cú “đề pa” đầy hào sảng, như tiếng phát ra từ ống “pô” những chiếc Vespa cổ, trong mấy năm sau cứ lịm dần, rồi tịt hẳn.

Chuyện xôn xao bắt đầu từ việc giải tỏa những xóm nhà sàn ở trên và hai bên dòng kênh đen ngòm dày đặc rác. Những ngôi nhà mái tôn vách bằng lá dừa, hay bằng thùng giấy, hoặc bằng bất cứ gì có thể che chắn được, đã dần dần được giải tỏa. Rồi những chiếc máy xúc, cần cẩu xuất hiện, một vệt ngổn ngang nào xà bần, nào bùn rác…

Con đường đã thành hình ở hai bên bờ kênh. Dãy nhà mới nhô ra ở bên từng con đường lúc đầu cũng nhếch nhác không kém những ngôi nhà vừa bị ủi đi. Nhưng, như một phép màu, chúng được sửa sang, hay xây mới rất nhanh, bởi có nhà “mặt tiền” là sẽ kiếm ra tiền thôi mà.

Vẫn còn nhếch nhác, ngổn ngang, vẫn mùi xú uế, nhất là khi nước ròng. Nhưng hở ra đoạn đường nào là hàng quán mọc ra đến đấy. Quán cà phê, quán nhậu, quán nhà lầu, hay quán lá dựng tạm ven kênh. Có quán chỉ là vài bộ bàn ghế, kiểu quán “cóc” ngoài Hà Nội, có quán lại rộng rãi, khang trang, với máy lạnh, đèn màu sáng trưng…

Nếu như vào năm 2003 ước chỉ có vài chục quán thì nay đã có hàng ngàn quán, mọc lên như nấm mùa mưa. Và người ở đâu lại đổ đến đây tấp nập mỗi chiều…


Cụ bà trên 80 ….. nhưng hằng đêm vẫn đi bán đậu phộng luộc để kiếm sống trên bờ kè kênh Nhiêu Lộc. Nguồn: OntheNet

Dân nhậu đất Sài Thành bắt đầu quen với thuật ngữ quán bờ kè, vừa là địa chỉ chung cho một khu ăn nhậu bình dân mới hình thành, vừa thể hiện đầy đủ những đặc trưng của “Sài Gòn nhậu”: mồi ngon, phong phú, lại khá rẻ; nhiều loại bia rượu từ bình dân đến cao cấp; chỗ ngồi thoải mái, muốn máy lạnh, hay muốn hưởng gió trời, đều có cả; chủ quán và phục vụ nhiệt tình, có người giữ xe máy không mất tiền lại còn cẩn thận dẫn xe giùm khi có ai lỡ xỉn quá.

Nhiều quán còn có các em gái tiếp viên mùa nào cũng áo thun hai dây ôm sát cái eo thon và quần ngắnkhoe cặp chân dài. Rồi các em tiếp thị bia, thuốc lá, hay các cụ già và em nhỏ bán vé số mang đến tận bàn. Thỉnh thoảng có mấy anh chàng “múa lửa”, hay bán kẹo kéo, cùng dàn loa khủng oang oang nhạc sến, à quên, bolero…

Thôi thì ở đâu “chơi” kiểu nào thì quán bờ kè “chơi” kiểu đó.

“Với tất cả sự khiêm tốn những người tự nhận mình khiêm tốn”, tôi vẫn phải thừa nhận rằng, tôi và bạn bè đã thường xuyên góp phần vào sự tấp nập nơi bờ kè. Mỗi chiều, đến giờ tan sở, cứ nghĩ đến đường về nhà phải trải qua vài đoạn kẹt xe hàng giờ vì lô cốt, hình như ai cũng ngán ngại… Vậy là nhắn nhau “ra bờ kè nhé”. Chẳng cần nói tên quán, vì nhóm nào cũng có một, hai “quán ruột” của mình.

Quán “Ốc núi” của bọn tôi nằm ở một đoạn đường khuất, trước quán có hàng điệp mới trồng cao hơn đầu người, nhưng đã trổ bông vàng, và dòng kênh uốn mình, hẹp lại, hiện ra gọn gàng giữa hai bờ mới kè lại đều tăm tắp. Nhiều năm qua, quán này đã vài lần đổi chủ, nhưng không đổi khách. “Băng” tụi tôi thích quán này vì… nó vắng, đã thế đồ ăn khá vừa miệng, lại rẻ nữa. Ngồi đây tha hồ chuyện trên trời dưới đất, không có tiếng dô dô ồn ào xung quanh, lại có thể chỉ ngồi im lặng, lơ đãng ngó đường, ngó kênh, ngắm nhìn hoàng hôn chầm chậm mỗi chiều…

Lý do này thiệt là vô duyên, hổng chừng chủ quán mà nghe thì đuổi cả đám, vì ai mở quán mà mong vắng khách, phải hôn? Quán vắng, có lẽ, vì nó nằm gần như tách biệt khỏi khu vực tấp nập đằng kia, tôi tự lý giải.

Mỗi lần ghé quán là một lần thấy sự thay đổi của dòng kênh, của những ngôi nhà hai bên, và của cả con người ở đây.


Nguyễn Thị Hậu
(Trích Tạp bút, Nguyễn Thị Hậu)
Nguồn: Ngó từ quán nhậu bờ kè. Trích Tạp bút – Nguyễn Thị Hậu. Facebook. Nguyễn Thị Hậu. 11/11/2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét