Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Bài phát biểu của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền

Bài phát biểu của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền
Phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc tại phiên Rà soát Định kỳ Phổ quát về quyền con người (UPR) chu kỳ II của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc hôm 5/2/2014.
Hai người giữa ảnh, sau biển "VIET NAM": Đại sứ VN tại LHQ 
Nguyễn Trung Thành (trái) và Thứ trưởng Hà Kim Ngọc (phải)
Thưa ngài Chủ tịch,
Thưa các Quý ông, Quý bà,
Tôi rất vinh dự dẫn đầu Đoàn Đại biểu nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham dự Phiên rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ II về tình hình thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và tự do cơ bản tại Việt Nam trong khuôn khổ Khoá họp lần thứ 18 Nhóm làm việc về UPR của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Thưa ngài Chủ tịch,

Những năm qua, hòa bình, phát triển và đảm bảo quyền con người luôn là nguyện vọng chung của cộng đồng quốc tế, đồng thời cũng là những vấn đề mà Liên hợp quốc và đặc biệt là Hội đồng Nhân quyền đã khẳng định được vai trò trung tâm của mình. Tuy nhiên, xung đột khu vực, khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu vẫn tiếp diễn và có tác động không nhỏ tới sự thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của nhân dân thế giới. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các chính sách đảm bảo quyền con người, trong đó có việc thực hiện các khuyến nghị UPR đã chấp thuận từ lần rà soát trước.

Việt Nam nhìn nhận UPR là cơ chế hiệu quả và thành công của Hội đồng Nhân quyền trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trên toàn thế giới trên nguyên tắc phổ cập, công bằng, đồng thuận, hợp tác và đối thoại. Chính vì vậy, ngay từ chu kỳ đầu tiên của Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát cũng như trong suốt quá trình thực hiện các khuyến nghị UPR và chuẩn bị cho chu kỳ II, Việt Nam luôn thể hiện tinh thần nghiêm túc, đối thoại và cởi mở nhằm đảm bảo việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam không chỉ là trách nhiệm của Chính phủ mà là một tiến trình mở với sự tham gia của tất cả các bên liên quan, trong đó đặc biệt khuyến khích sự tham gia của mỗi người dân với vai trò là đối tượng thụ hưởng.

Việt Nam đã rà soát theo cơ chế UPR chu kỳ I vào tháng 5/2009 và nhận được 123 khuyến nghị từ 60 quốc gia, trong đó 5 khuyến nghị đang được thực hiện trên thực tế và 96 khuyến nghị được Việt Nam chấp nhận. Bên cạnh đó, một số khuyến nghị mặc dù không được chấp nhận do không phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam nhưng vẫn được Chính phủ Việt Nam xem xét khả năng thực hiện một cách nghiêm túc.

Ngay sau khi Báo cáo được Hội đồng Nhân quyền thông qua, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch tổng thể và giao trực tiếp nhiệm vụ thực hiện các khuyến nghị cho 17 Bộ, ngành và cơ quan theo từng lĩnh vực cụ thể. Các cơ quan này xây dựng kế hoạch riêng và định kỳ hàng năm báo cáo Chính phủ việc thực hiện các khuyến nghị được phân công.

Đến thời điểm này, tất cả các khuyến nghị mà Việt Nam chấp nhận tại phiên rà soát UPR chu kỳ I đã và đang được thực hiện nghiêm túc và tích cực, thể hiện sinh động trên tất cả các mặt đời sống xã hội, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững, đảm bảo an sinh xã hội, tạo việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, đảm bảo các quyền tự do cơ bản của người dân, đảm bảo quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương…

Tổng quan về tình hình thực hiện các khuyến nghị UPR đã được trình bày đầy đủ trong Báo cáo quốc gia chu kỳ II của Việt Nam. Đồng thời, trong Báo cáo này, chúng tôi cũng nêu rõ những thành tựu và hạn chế về việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam. Báo cáo được xây dựng một cách toàn diện nhờ sự đóng góp ý kiến rộng rãi của các cơ quan Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và người dân. Quá trình tham vấn về nội dung Báo cáo là diễn đàn để các bên quan tâm cùng chia sẻ thông tin về những bước phát triển mới trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Để giúp quý vị có cái nhìn đầy đủ và chi tiết về việc thực hiện các khuyến nghị UPR của Việt Nam, chúng tôi đã gửi tới quý vị bảng tổng hợp kết quả thực hiện đối với từng khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận từ lần rà soát trước.

Nhân dịp này, tôi xin một lần nữa bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới tất cả các nước đã tham dự phiên rà soát về Việt Nam tại chu kỳ I, đã đưa khuyến nghị, nêu câu hỏi hoặc bày tỏ sự quan tâm đến tình hình đảm bảo các quyền con người ở Việt Nam. Tôi hi vọng rằng tại phiên rà soát về Việt Nam chu kỳ II hôm nay, Đoàn Việt Nam một lần nữa lại nhận được sự quan tâm, ủng hộ và đóng góp tích cực từ các quý vị.

Thưa ngài Chủ tịch,
Thưa các Quý ông, Quý bà,


Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người, coi đó là nguyên tắc cơ bản của các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Điều 3, Hiến pháp 2013 khẳng định : « Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. » Đồng thời, trong quá trình đổi mới toàn diện, việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân đã tạo tiền đề cần thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội.

Một trong những ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua cũng như trong thời gian tới là đẩy mạnh việc kiện toàn hệ thống pháp luật, chính sách và thể chế về đảm bảo quyền con người, xây dựng Nhà nước Pháp quyền, đảm bảo sự thụ hưởng ngày càng đầy đủ hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân. Việt Nam đã ban hành và tích cực triển khai Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm đảm bảo mục tiêu xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại, phục vụ phát triển đất nước và bảo vệ nhân dân.

Sự kiện quan trọng nhất trong đời sống chính trị của Việt Nam là vào ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới, trong đó dành toàn bộ chương II với 36 điều quy định chi tiết và đầy đủ về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Hiến pháp 2013 là bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp quyền và thể chế hóa quyền con người ở Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Trước khi trình Quốc hội xem xét thông qua, bản Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã được đăng công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng từ tháng 2/2013 và nhận được hàng chục triệu ý kiến đóng góp của của các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân. Đây là minh chứng rõ nét nhất cho sự nhất quán trong chính sách của Nhà nước và sự đồng thuận của xã hội trong sự nghiệp thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.

Về xây dựng khuôn khổ luật pháp theo mục tiêu nhà nước pháp quyền, tính từ năm 2009 đến nay, 25 đạo luật quan trọng đã được Quốc hội ban hành và sửa đổi nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền con người, trong đó đáng chú ý là Bộ luật Hình sự, Bộ Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Công đoàn, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Phòng, chống mua bán người, Luật Luật sư, Luật Xuất bản, Luật Báo chí… Ngoài ra, Chính phủ cũng đã phê duyệt và triển khai thực hiện 41 chiến lược và chương trình quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội với ưu tiên dành cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.

Việt Nam được quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo. Việc thực hiện “Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo” trên cơ sở Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2001-2010 đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,8% năm 2007 và 7,8% năm 2013, giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đã đạt trước thời hạn 5/8 Mục tiêu Thiên niên kỷ, được Liên hợp quốc nhìn nhận là hình mẫu của quốc tế trong lĩnh vực này.

Trong bối cảnh khó khăn kinh tế – xã hội trong nước do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế – tài chính toàn cầu, Chính phủ Việt Nam vẫn nỗ lực và dành ưu tiên cao cho việc đảm an sinh xã hội, cải thiện chất lượng sống của người dân. Không những không chương trình an sinh xã hội nào bị cắt giảm, chỉ tính riêng trong 2 năm 2011-2012, Chính phủ đã chi hơn 1 tỷ đô la Mỹ để hỗ trợ bảo hiểm y tế cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, miễn giảm học phí và trợ cấp tiền ăn trưa cho trẻ em nghèo, trẻ em người dân tộc thiểu số… Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá 5,5-6%/năm trong giai đoạn 2009-2012 là cơ sở cho Việt Nam thực hiện được các mục tiêu đề ra về lao động, việc làm, y tế, giáo dục và an sinh xã hội như tạo ra trên 1,5 triệu việc làm mỗi năm, duy trì tỉ lệ thất nghiệp ở mức dưới 2%, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Báo cáo chỉ số phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc năm 2010 ghi nhận Việt Nam là một trong mười nước có mức tăng thu nhập cao nhất trong 40 năm qua.

Ở Việt Nam, các quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật, được bảo đảm thực hiện bằng các cơ chế, bộ máy của Nhà nước và được khuyến khích thông qua sự phát triển phong phú, đa dạng của các loại hình báo chí, phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó có Internet. Tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân luôn được trân trọng, lắng nghe trong quá trình xây dựng pháp luật cũng như hoạch định chính sách về mọi vấn đề quan trọng của đất nước. Các cuộc chất vấn, phản biện về chủ trương, chính sách tại Quốc hội, các cuộc tọa đàm, tranh luận, các thông tin đa chiều trên phương tiện thông tin đại chúng về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội và người dân là thực tiễn diễn ra hàng ngày trong đời sống của nhân dân Việt Nam. Việc dự thảo Hiến pháp sửa đổi nhận được hàng chục triệu ý kiến đóng góp trong gần 10 tháng đăng tải công khai trên internet và các tờ báo, tạp chi lớn là minh chứng rõ nét nhất cho thực tiễn đảm bảo quyền tự do thông tin, tự do bày tỏ chính kiến của người dân Việt Nam.

Tính đến hết năm 2013, cả nước có 997 cơ quan báo chí in với 1.084 ấn phẩm (so với 676 cơ quan và gần 700 ấn phẩm của năm 2009); gần 17.000 nhà báo được cấp thẻ; 01 hãng thông tấn, 67 đài phát thanh, truyền hình, 101 kênh truyền hình và 78 kênh phát thanh, 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội và 1.174 trang thông tin điện tử. Người dân Việt Nam được tiếp cận với hầu hết các hãng thông tấn, truyền hình lớn trên thế giới và thông qua Internet, kết nối trực tiếp với mọi mặt đời sống quốc tế.

Sự phát triển mạnh mẽ của internet tại Việt Nam là một thực tế đáng ghi nhận. Tính đến tháng 12/2012, số người dùng Internet ở Việt Nam là 30,8 triệu người (so với 26 triệu người năm 2010 và 20 triệu người năm 2008), chiếm 34% dân số (cao hơn mức trung bình của thế giới là 33%). Gần 3 triệu người có blog cá nhân. Theo xếp hạng năm 2012 của Liên minh viễn thông quốc tế (ITU), Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và thứ 8 tại Châu Á về số lượng người sử dụng Internet.

Ở Việt Nam hiện có khoảng 460 hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố (so với 380 hội năm 2009); 20 tổ chức công đoàn ngành; trên 36.000 tổ chức hội, hiệp hội, câu lạc bộ ở cấp địa phương, hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hội hoạt động đặc biệt tích cực trên các mặt xã hội, nhân đạo, từ thiện, nhất là cung ứng dịch vụ giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường… Các hội cũng có vai trò ngày càng tích cực trong việc tư vấn, phản biện đối với các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, chương trình và dự án phát triển kinh tế, xã hội của Chính phủ và của địa phương.

Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng, đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng; bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. 95% người dân Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, trong đó có tín đồ của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo. Hàng năm có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng được tổ chức ở nhiều quy mô khác nhau trên khắp cả nước đã tạo nên đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc vùng miền.

Nhà nước Việt Nam chủ trương các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Người dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham chính ngày càng tăng, số lượng đại biểu Quốc hội là dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao hơn so với tỷ lệ dân số. Trong giai đoạn 2006 – 2012, Nhà nước đã ban hành 160 văn bản quy phạm pháp luật và trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, vẫn dành hơn 2,5 tỷ đô la Mỹ về chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi. Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”, trong đó tập trung ưu tiên phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số rất ít người. Nhiều di sản văn hóa các dân tộc đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới như: “Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên”, “Thánh địa Mỹ Sơn”, hoặc di sản văn hoá cấp quốc gia.

Thưa ngài Chủ tịch,

Vai trò và sự đóng góp của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, thể hiện qua việc đông đảo các nước đã bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016. Chính phủ Việt Nam một lần nữa khẳng định lại cam kết sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước và đóng góp một cách trách nhiệm vào công việc của Hội đồng Nhân quyền nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, sự minh bạch và vai trò của Hội đồng như một cơ chế quan trọng nhất trong hệ thống của Liên hợp quốc về quyền con người.

Thực hiện các khuyến nghị UPR liên quan đến tham gia các công ước quốc tế về quyền con người, tháng 11/2013, Việt Nam đã ký Công ước về chống tra tấn. Theo lộ trình, Việt Nam sẽ phê chuẩn Công ước về chống tra tấn và Công ước về quyền của người khuyết tật trong năm 2014 và như vậy, Việt Nam sẽ là thành viên của 7/9 công ước quốc tế chủ chốt của Liên hợp quốc về nhân quyền. Trước đó, tháng 6/2012, Việt Nam đã ký và phê chuẩn Công ước về Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về ngăn chặn, trấn áp và trừng phạt tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Việt Nam cũng đã ký nhiều công ước của Tổ chức Lao động quốc tế liên quan đến lao động và việc làm như Công ước số 122 về Chính sách việc làm và Công ước số 186 về Lao động hàng hải.

Thực hiện nghĩa vụ báo cáo đối với các công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên, Việt Nam đã trình bày báo cáo Công ước quốc tế về chống phân biệt chủng tộc tháng 2/2012, Công ước về quyền trẻ em tháng 5/2012, hoàn thành và nộp báo cáo Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, báo cáo quốc gia đối với Công ước về chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và đang tích cực triển khai soạn thảo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.

Thực hiện các khuyến nghị liên quan đến hợp tác với cơ chế Thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền, trong 4 năm qua, chúng tôi đã đón 5 Thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền vào thăm và làm việc tại Việt Nam, gồm Chuyên gia độc lập về các vấn đề thiểu số (tháng 7/2010), Chuyên gia độc lập về đói nghèo cùng cực và nhân quyền (tháng 8/2010), Chuyên gia độc lập về nợ nước ngoài (tháng 3/2011), Báo cáo viên đặc biệt về quyền được hưởng thụ những tiêu chuẩn cao nhất có thể về y tế (tháng 12/2011) và Chuyên gia độc lập về quyền văn hóa (tháng 11/2013) thăm Việt Nam. Việt Nam cũng đã gửi lời mời tới các Thủ tục đặc biệt về quyền lương thực, giáo dục, tự do tôn giáo và tín ngưỡng thăm Việt Nam trong năm 2014 và xem xét mời một số Thủ tục đặc biệt khác trong những năm tiếp theo. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đối với các Thủ tục đặc biệt đã thăm và có những đánh giá tích cực về Việt Nam, đồng thời giúp chỉ ra các thách thức Việt Nam cần giải quyết nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền con người.

Với chủ trương sẵn sàng đối thoại và hợp tác về quyền con người, coi đó là cơ hội để trao đổi thẳng thắn, xây dựng về những vấn đề nhân quyền cùng quan tâm, Việt Nam đã thiết lập các cơ chế đối thoại song phương thường kỳ về nhân quyền với một số nước, đồng thời hợp tác tích cực với các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc có liên quan đến vấn đề quyền con người. Chính phủ Việt Nam luôn trân trọng và sẵn sàng cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến các lĩnh vực được quan tâm, trực tiếp trong các khuôn khổ đối thoại cũng như trong các báo cáo định kỳ về tình hình đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, trong đó có Báo cáo quốc gia theo cơ chế UPR.

Ở cấp độ khu vực, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong việc thành lập cũng như hoạt động của Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC). Đặc biệt, Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN xây dựng và thông qua Tuyên bố Nhân quyền ASEAN tháng 11/2012. Đây là văn kiện đầu tiên phác thảo khuôn khổ tăng cường hợp tác và bảo vệ nhân quyền ở khu vực, là sự cam kết của các nước ASEAN trong việc tôn trọng và đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của người dân trong khu vực.

Ngoài ra, Việt Nam cũng hợp tác tích cực với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) trong việc triển khai Dự án về tăng cường năng lực thực thi các công ước quốc tế về quyền con người ở Việt Nam, trong đó tập trung vào hoạt động phổ biến các kết quả thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam về quyền con người, đặc biệt là việc thực hiện các khuyến nghị UPR.

Với những thành tựu nêu trên, có thể nói rằng người dân Việt Nam hôm nay có mức sống ngày càng cao, được hưởng thụ ngày càng tốt hơn và đầy đủ hơn các quyền và tự do cơ bản của mình.

Thưa ngài Chủ tịch,

Dù đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển với những hạn chế về nguồn lực không dễ vượt qua. Với lãnh thổ trải dài hơn 2.000 km, sự đa dạng về dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng, địa lý và thổ nhưỡng đã tạo nên bản sắc và giá trị riêng của đất nước Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người và tự do cơ bản cho mọi người dân. Bên cạnh đó, hậu quả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, những tác động tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa với hệ lụy là các cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu… cũng góp phần sói mòn các nguồn lực vốn đã thiếu hụt và làm giảm hiệu quả của các chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, qua đó tác động trực tiếp đến sự thụ hưởng các quyền của người dân Việt Nam. Hệ thống pháp luật, dù đang không ngừng được kiện toàn, vẫn còn thiếu đồng bộ, đôi chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa theo kịp thực tiễn; quá trình thực hiện đôi lúc, đôi chỗ chưa tốt ảnh hưởng tới sự thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của người dân.

Ý thức được những khó khăn và thách thức đó đó, trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc kiện toàn hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp mới, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân, đảm bảo hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế; đẩy mạnh các chương trình cải cách hành chính nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, mở rộng dân chủ và nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tăng cường các thể chế quốc gia bảo vệ quyền con người. Bên cạnh đó, các chương trình quốc gia đã và đang được triển khai trên từng lĩnh vực cụ thể nhằm tăng khả năng tiếp cận của các nhóm yếu thế vào hệ thống an sinh xã hội; tăng cường nhận thức về bình đẳng giới; chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hướng đến một xã hội khỏe mạnh và được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần… Trên phạm vi quốc tế, Việt Nam chủ trương tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc; tham gia tích cực và có trách nhiệm vào công việc của Hội đồng Nhân quyền; thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các Công ước nhân quyền quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tăng cường hiệu quả các cơ chế đối thoại song phương thường kỳ về quyền con người.

Thưa ngài Chủ tịch,
Thưa các Quý ông, Quý bà,


Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người phải là một tiến trình liên tục, bền bỉ và có tầm nhìn xa. Trong tiến trình đó, sự nỗ lực của mỗi quốc gia riêng lẻ khó có thể đạt hiệu quả cao nhất nếu thiếu sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và đối thoại mang tính xây dựng.

Từ nhận thức đó, Việt Nam tham gia cơ chế UPR, và trong thời gian tới sẽ đóng góp tích cực vào công việc chung của Hội đồng Nhân quyền. Chúng tôi hoan nghênh và lắng nghe các ý kiến đóng góp, các khuyến nghị và nhận xét của quý vị đại biểu.

Một lần nữa, xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quý vị.

Theo MOFA

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét