Thứ Sáu, 8 tháng 2, 2013

NHỮNG PHÂN TÍCH VỀ TỶ GIÁ VN ĐỒNG

“Tám” chuyện tỷ giá năm 2013
Nguyễn Hoài
Nhiều người đều thừa nhận một sự thật là tỷ giá đã ổn định suốt năm 2012 và có thể kéo dài xu hướng này hết 2013…
“Chỉ tiêu” phá giá VND 3% của năm 2012 không dùng hết mà thay vào đó là hình ảnh lạc quan: thanh khoản dồi dào, thậm chí còn xuất hiện tình huống hiếm gặp ở một nền kinh tế bị “đôla hóa” trầm trọng như ở Việt Nam là VND tăng giá so với USD. Cùng đó, năm 2012, Ngân hàng Nhà nước mua thêm 15 tỷ USD và chỉ trong 22 ngày đầu của tháng 1/2013, con số này ước vài tỷ USD.
Một số chuyên gia dự báo biên độ điều chỉnh tỷ giá năm 2013 chỉ ở mức +/- 3% nhưng họ không đồng tình như vậy do lạm phát ở Việt Nam luôn cao gấp nhiều lần lạm phát ở Mỹ. Vì thế, “phá giá” VND thêm 4% – 5% trong năm nay là điều nên làm. Nhưng, phía Ngân hàng Nhà nước lại có lập luận khác.
Nếu như thời điểm này từ các năm 2011 về trước, thị trường ngoại tệ thường xuyên “sốt, lạnh”, giới găm giữ ngoại tệ không chịu bán ra và Ngân hàng Nhà nước liên tục phải cung ngoại tệ để bình ổn thì năm nay, tỷ giá mang một bộ mặt khác hẳn.

Mối lo đã không hiện ra

Ròng rã suốt năm 2012, tỷ giá bình quân liên ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước chủ động giữ nguyên ở mức 20.828 VND/USD, nếu tính từ thời điểm điều chỉnh cuối cùng vào ngày 24/12/2011. Ngay cả “chỉ tiêu” điều chỉnh tỷ giá năm 2012 được xác định là +/-3% bởi tuyên bố của Thống đốc Nguyễn Văn Bình hồi đầu năm thì cũng chỉ dùng hết +1% với mức biến động cho phép đối với cặp USD/VND ở khoảng 20.620 VND – 21.036 VND/USD.
Đi cùng với đó, tỷ giá trên thị trường chính thức ổn định quanh mức 20.850 VND/USD, mặc dù ở một số thời điểm trong năm xuất hiện vài đợt sóng ngắn ngủi, đưa tỷ giá lên mức 20.820 VND – 21.295 VND/USD cho hai chiều mua và bán.
Chi tiết hơn, nếu phân kỳ, tỷ giá trong năm 2012 được thể hiện thành 2 giai đoạn: từ tháng 1/2012: sụt về mức 20.820 VND/USD nhưng từ tháng 2/2012 kéo dài đến hết năm lại ổn định trong biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước (20.825 VND – 21.036 VND/USD).
Tại những thời điểm cuối tháng 5, đầu tháng 6 và cuối tháng 8 đầu tháng 9 của 2012, tỷ giá xuất hiện vài đợt sóng nhưng đó là do một số ngân hàng thương mại lớn, nhất là các “anh cả” nhà nước cố tình tạo sóng kiếm chút lời khi được Ngân hàng Nhà nước “ngó lơ” nhưng mức mua bán nhanh chóng lùi dần về mốc 20.840 VND – 20.845 VND/USD vào cuối năm.
Song song, tỷ giá trên thị trường tự do cũng không tạo ra sự biến động nào đáng kể. Cuối tháng 8, đầu tháng 9/2012, tỷ giá nhích lên và bỏ xa thị trường chính thức một khoảng khá lớn nhưng nhanh chóng trở lại bám sát tỷ giá chính thức. Đây chính là một điểm sáng của thị trường ngoại hối trong năm nay.
Và như vậy, những lo ngại của giới phân tích đầu năm 2012 rằng, tỷ giá sẽ phải điều chỉnh rất mạnh, chí ít thì VND phải tăng giá khoảng 8% – 10% so với USD nhưng điều đó đã không xảy ra.

“Anh hùng” gặp thời?
Năm 2012 ghi nhận một sự khác biệt trong điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có tỷ giá chính là sự nhất quán trong các thông điệp từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Dù có một vài thời điểm, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng, giảm nhưng tựu trung là bám sát tín hiệu thị trường và kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát.
Điểm thứ nhất, nếu như các năm trước, mỗi khi sóng tỷ giá gợn lên, Ngân hàng Nhà nước thường ban hành dồn dập các văn bản uốn nắn theo mong muốn của mình thì năm 2012, nhà điều hành thường quan sát thị trường rất kỹ và sử dụng các công cụ điều tiết mang tính kỹ thuật nhiều hơn.
Chẳng hạn, Ngân hàng Nhà nước vừa thu hẹp các đối tượng được vay ngoại tệ cũng như trạng thái ngoại tệ được phép nắm giữ của các tổ chức tín dụng, vừa giữ vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường một cách rất linh hoạt. Cá biệt, có những thời điểm tỷ giá giảm sâu, Ngân hàng Nhà nước còn chủ động nâng giá mua lên mức 20.850 VND/USD để ngăn đà tăng giá của VND.
Điểm thứ hai là duy trì lợi ích cho người nắm giữ VND vượt trội hơn so với nắm giữ USD từ góc độ tiền gửi. Lãi suất VND ở mức 14% – 13% – 12%, thậm chí kéo xuống 8% ở các thời điểm trong năm so với lãi suất tiền gửi USD chỉ vài ba phần trăm, khiến cho bên nắm giữ nguồn cung tiếp tục bán ra.
Lượng bán ra lớn đến nỗi, theo tiết lộ của một quan chức Ngân hàng Nhà nước, trong năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã mua thêm 15 tỷ USD vào dự trữ ngoại hối. Thậm chí, 22 ngày đầu của tháng 1/2013, Ngân hàng Nhà nước đã mua vài tỷ USD.
Điểm thứ ba, Ngân hàng Nhà nước kiên trì với mục tiêu quản lý thị trường vàng. Khi tham mưu cho Chính phủ ban hành hai Nghị định 95 và Nghị định 24, Ngân hàng Nhà nước biết thừa sẽ vấp phải sự chống đối quyết liệt từ những tổ chức cá nhân sử dụng vốn vay ngân hàng để kinh doanh vàng và lũng đoạn thị trường này trong nhiều năm nhưng nhà điều hành vẫn kiên trì theo đuổi đến cùng.
Với Nghị định 95, Nhà nước được phép tịch thu hoàn toàn số vàng buôn lậu, đã khiến giới buôn vàng chùn tay, khiến thị trường tỷ giá tự do không gây nhiễu thị trường chính thức.
Cùng đó, Nghị định 24 với yêu cầu tổ chức tín dụng tất toán số vàng đã bán của bên gửi trước 25/11/2012 (được gia hạn đến 30/6/2013 – NV); đồng thời, kinh doanh theo hệ thống mới do Ngân hàng Nhà nước sắp đặt đã đem lại một diện mạo mới cho thị trường vàng: minh bạch và nhà nước không bị thất thu thuế.
Tất nhiên, một yếu tố khác cực kỳ quan trọng chính là giảm tổng cầu, đã góp phần làm cho tỷ giá yên ổn hơn. Trong điều kiện kim ngạch xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD trong khi kim ngạch nhập khẩu chỉ 114,3 tỷ USD, cộng với lượng kiều hối ước khoảng 10,5 tỷ USD và một số lợi thế khác, lần đầu tiên kể từ 2007, cán cân thanh toán tổng thể đã thặng dư 10 tỷ USD.
Chắc hẳn nhiều người đều thừa nhận một sự thật là tỷ giá đã ổn định suốt năm 2012 và có thể kéo dài xu hướng này hết 2013. Nhưng phía sau hình hài lạc quan trên là những khó khăn bắt đầu lấp ló từ quy luật muôn thuở trong “bộ ba bất khả thi”: tự do hóa dòng vốn, tỷ giá hối đoái cố định và chính sách tiền tệ độc lập.
Rất có thể tại một thời điểm nhất định, việc cố giữ cho tỷ giá ổn định là phù hợp nhưng ở một thời điểm khác, chưa hẳn đã phù hợp. Vấn đề ở đây là nhà điều hành phải lường trước những bất ổn đang tiềm ẩn để có sự linh hoạt uyển chuyển trong điều hành nhằm tránh một kết cục không mong muốn trong tương lai.

Phá giá VND: Chuyên gia: có, Ngân hàng Nhà nước: không!

►Khi phá giá VND thì tác động không mong muốn đầu tiên là Việt Nam đã “nhập khẩu lạm phát”…

Đang có những góc nhìn trái chiều về việc Việt Nam có nên điều chỉnh tỷ giá trong năm 2013.
Chính phủ nên chủ động tăng tỷ giá khoảng 4%

(Ông Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia)

“Chúng tôi tính toán, năm 2013, kinh tế sẽ phục hồi vào nửa cuối năm. Như thế, khả năng sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng tăng trở lại. Từ đó, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng vượt trội nhu cầu xuất khẩu và đưa nền kinh tế chuyển dần từ thặng dư thương mại đến thâm hụt thương mại như từng xảy ra ở các năm trước. Bức tranh tỷ giá lúc đó sẽ theo chiều hướng tăng, nhất là khi các nhà nhập khẩu cần nhiều hơn ngoại tệ và tất nhiên, cán cân thanh toán có thể chuyển dịch theo hướng thâm hụt mạnh, dù năm nay đang là thặng dư.
Mặt khác, nếu so sánh tỷ giá song phương giữa VND và USD thì VND đang bị đánh giá cao khoảng 23%, bởi lạm phát của Việt Nam trong các năm vừa qua đã cao hơn rất nhiều so với lạm phát của Mỹ. Vì thế, nếu không điều chỉnh tỷ giá hối đoái thì sẽ xảy ra một số hệ quả không mong muốn mà trước hết là tác động xấu đến xuất khẩu. Ở chỗ, sức cạnh tranh hàng xuất khẩu giảm sút do hàng Việt Nam bị tăng giá, lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu kém thêm.
Từ thực tế này, Chính phủ nên chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá thêm ở mức khoảng 4% trong năm nay để hỗ trợ xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Điều này cũng giúp hạn chế nhu cầu nhập khẩu, nhất là các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ.
Hãy nhớ, các quan hệ tiền tệ thế giới tự bản thân nó đều tạo ra sự cân bằng một cách tự nhiên, và nếu VND bị định giá quá cao mà không chủ động tạo nên sự cân bằng thì một ngày nào đó sẽ mất cân bằng tiền tệ, thậm chí, khủng hoảng tỷ giá hối đoái. Sở dĩ như vậy là vì khi lạm phát Việt Nam cao hơn rất nhiều lần so với Mỹ nhưng VND lại được định giá quá cao và nếu không chịu thừa nhận sự thật về mức độ chênh lệch giá trị giữa hai đồng tiền quá lớn mà để chúng dồn nén từ năm này qua năm khác thì tất yếu đến lúc thị trường sẽ đòi hỏi một quy luật vận hành công bằng.
Thà chấp nhận sự thật, mỗi năm điều chỉnh tỷ giá khoảng 4% thì tỷ giá sẽ ổn định hơn. Cũng không nên phá giá ở mức độ cao hơn vì có thể gây sốc.
Cứ hình dung rằng, trong vòng 5 năm qua, bình quân lạm phát của Việt Nam là 12%/năm, trong khi chỉ số này của Mỹ là 2%/năm, như thế, tỷ giá thực đã bị tăng nhưng Chính phủ lại không cho mức biến động giá trị VND tương ứng như trên. Điều đó rất bất lợi cho xuất khẩu, nhất là khi Chính phủ vẫn xác định xuất khẩu là một trong những trụ cột lớn của tăng trưởng. Vì thế, thà chấp nhận sự thật, mỗi năm điều chỉnh tỷ giá khoảng 4% thì tỷ giá sẽ ổn định hơn. Cũng không nên phá giá ở mức độ cao hơn vì có thể gây sốc.
Cũng có  một tính toán khác là nếu tính tỷ giá đa phương (bao gồm 19 đồng tiền trong rổ đồng tiền tính toán trong quan hệ xuất nhập khẩu với VND) thì VND chỉ tăng giá khoảng 4% do nhiều đồng tiền khác bị giảm giá. Nhưng đó không phải là niềm lạc quan đối với điều hành tỷ giá vì trong quan hệ thanh toán thương mại quốc tệ, hầu hết doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đều dùng USD là đồng tiền chủ yếu. Thế nên, tỷ giá song phương mới là chỉ số quan trọng”.

Phá giá, xuất khẩu mới có lợi
(Ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị LienVietPostBank)“Đã đến lúc, phải nghĩ đến chuyện phá giá thêm VND, dù dùng từ “phá giá” có phần hơi nặng nề, thì xuất khẩu mới có lợi.
Hiện tại, Mỹ đã nới lỏng tiền tệ bằng khá nhiều gói cứu trợ và chúng sẽ kích thích mạnh tiêu dùng, tác động tốt cho xuất khẩu của các nước, trong đó có Việt Nam.
Có thể, Việt Nam vẫn còn e ngại giảm đầu tư nước ngoài nên mới duy trì tỷ giá dưới giá trị thật như vậy, nhưng hãy tận dụng tốt cơ hội để đẩy thêm hàng vào Mỹ.
Ngược lại, trâu chậm thì uống nước đục!”

Phá giá, sẽ “nhập khẩu lạm phát”
(Ông Lê Minh Hưng, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
“Điều hành tỷ giá không phải cứ muốn tăng hay giảm tùy tiện mà được. Các tổ chức tài chính quốc tế, kể cả WB khi áp các công thức tính toán tỷ giá của Việt Nam đều ra các kết quả rất khác nhau. Hơn nữa, lấy năm nào làm năm gốc, số liệu xuất nhập khẩu từng năm cũng khác nhau cùng chuỗi số liệu lịch sử, sau đó áp vào các công thức tính toán đều cho một biên độ biến động rất lớn. Đến nay, Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng phải thừa nhận là điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua là rất phù hợp.
Nhiều người nói nên “phá giá VND” thêm so với mức 2012 để hỗ trợ xuất khẩu nhưng phải thấy là doanh số hàng xuất khẩu là một chuyện nhưng còn một vấn đề quan trọng khác là cơ cấu hàng xuất khẩu. Nói cách cách, độ co giãn cầu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam khi thu nhập thay đổi và/hoặc giá thay đổi là không lớn.
Ví dụ, khi thu nhập của người dân nước nhập khẩu dù có tăng bao nhiêu chăng nữa thì cũng không vì thế mà họ mua gạo, cá basa, tôm, nông sản, quần áo, dày dép… của Việt Nam nhiều hơn, trong khi đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Vì thế, không thể điều hành tỷ giá một cách chung chung, đơn giản theo cách nghĩ cứ phá giá VND là hỗ trợ xuất khẩu được. Mà thực tế, phải căn cứ vào cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là hàng tiêu dùng thiết yếu; đồng thời, phải cân đối với rất nhiều yếu tố khác đi kèm, từ vĩ mô đến vi mô.
Năm 2012, đã cho thấy, những ai nắm giữ ngoại tệ đều thiệt so với nắm giữ VND. Vì thế, tổ chức kinh tế, người dân đã bán ra rất nhiều ngoại tệ cho tổ chức tín dụng. Năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã mua thêm một lượng ngoại tệ tương đương 15 tỷ USD.
Khi phá giá VND thì tác động không mong muốn đầu tiên là Việt Nam đã “nhập khẩu lạm phát”. Chưa kể, còn khuấy đảo và làm trầm trọng thêm tâm lý kỳ vọng tỷ giá tăng – một yếu tố được coi rất nguy hiểm trong điều hành bình ổn tỷ giá. Ngoài ra, khi phá giá VND, còn kích hoạt nhập khẩu trở lại. Một vấn đề khác không thể không lưu ý khi tăng tỷ giá là áp lực trả nợ vay của Chính phủ và doanh nghiệp vì cơ cấu đồng tiền nợ vay, chủ yếu là USD. Cả chục năm nay, nền kinh tế phải trả một giá rất đắt mỗi khi điều chỉnh giảm giá trị VND.
Ví dụ, nói riêng mặt hàng xăng dầu, những doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, họ không có nguồn thu ngoại tệ, tất cả đều phải mua, vì thế, khi điều chỉnh tỷ giá, lập tức giá xăng dầu tăng và tác động dây chuyền đến mọi hàng hóa khác. Mỗi tháng, ước tính, Petrolimex cần tới 500 triệu USD, chỉ cần nhích tỷ giá lên một chút là họ tăng giá ngay và nếu nhà nước không cho tăng là họ lỗ.
Năm tài chính 2011, Petrolimex vẫn chưa thể cân đối được lỗ lãi và quyết toán thuế là vì cú điều chỉnh tỷ giá năm đó. EVN cũng trong tình trạng tương tự khi họ vay nợ và nhập khẩu điện, máy móc thiết bị và đành phải phân bổ khoản lỗ đó dần vào các năm sau.
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang theo dõi cung cầu ngoại tệ trên thị trường và thấy diễn biến vẫn đang rất ổn  định. Trong bối cảnh nền kinh tế thường xuyên nhập siêu triền miên, việc giữ được tỷ giá như hiện nay là một thành công lớn. Trong đó, quan trọng nhất là ổn định được tâm lý kỳ vọng thị trường, đảm bảo quyền lợi cho người nắm giữ VND, từ đó khơi thông dòng chảy ngoại tệ vốn bị găm giữ từ rất lâu.
Năm 2012, đã cho thấy, những ai nắm giữ ngoại tệ đều thiệt so với nắm giữ VND. Vì thế, tổ chức kinh tế, người dân đã bán ra rất nhiều ngoại tệ cho tổ chức tín dụng. Năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã mua thêm một lượng ngoại tệ tương đương 15 tỷ USD. Thậm chí, chỉ trong 22 ngày đầu của tháng 1/2013, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào dự trữ ngoại hối vài tỷ USD”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét